(Xây dựng) - Bộ Xây dựng không được giao chủ trì thực hiện bất kỳ một chương trình nào trong kế hoạch thực hiện Chiến lược Bảo vệ môi trường (BVMT) quốc gia. Tuy nhiên, Bộ Xây dựng vẫn bám bát thực hiện các nhiệm vụ được giao trong Chiến lược BVMT quốc gia đến năm 2020, tầm nhìn năm 2030.
Tất cả các ao, hồ, kênh, mương, sông trong đô thị, khu vực dân cư cần được cải tạo, phục hồi khi thực hiện Chiến lược BVMT quốc gia (Ảnh: NZ).
Không chủ trì thực hiện dự án
Mới đây, Bộ Xây dựng nhận được văn bản của Bộ Tài nguyên và Môi trường đề nghị báo cáo tình hình thực hiện Chiến lược BVMT quốc gia. Trong văn bản trả lời Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Xây dựng cho biết, mặc dù Chiến lược BVMT quốc gia giao nhiệm vụ cụ thể cho Bộ Xây dựng, tuy nhiên trong kế hoạch triển khai Chiến lược này, Bộ Xây dựng không được giao chủ trì thực hiện bất kỳ một chương trình nào. Bên cạnh đó, Bộ Xây dựng cũng không nhận được yêu cầu phối hợp thực hiện của các bộ, ngành, địa phương chủ trì thực hiện các chương trình trong kế hoạch thực hiện Chiến lược BVMT quốc gia.
Bộ Xây dựng đề nghị Bộ Tài nguyên và Môi trường yêu cầu các cơ quan chủ trì thực hiện các chương trình trong kế hoạch thực hiện Chiến lược BVMT quốc gia báo cáo chi tiết các chỉ tiêu đề ra trong Chiến lược. Cụ thể, Bộ Tài nguyên và Môi trường được giao thực hiện Đề án quản lý, kiểm soát ô nhiễm môi trường trong các khu đô thị (KĐT) đến năm 2020, Chương trình mục tiêu quốc gia về khắc phục ô nhiễm và cải thiện môi trường giai đoạn 2016 - 2020, có trách nhiệm báo cáo các số liệu liên quan đến môi trường trong đô thị, bao gồm các chỉ tiêu: Tỷ lệ KĐT loại IV trở lên có hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt yêu cầu; Tỷ lệ chất thải rắn sinh hoạt đô thị được thu gom; Tỷ lệ diện tích cây xanh công cộng trong các KĐT, khu dân cư…
UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương được giao nhiệm vụ thực hiện Đề án cải tạo, phục hồi môi trường các ao, hồ, kênh, mương, đoạn sông trong KĐT, khu dân cư đang bị ô nhiễm nghiêm trọng; Dự án đầu tư xây dựng các công trình thu gom, xử lý nước thải sinh hoạt tập trung tại các đô thị loại IV và Dự án cải tạo, nâng cấp hệ thống thoát nước hiện có, xóa các điểm ngập úng cục bộ tại các đô thị loại III trở lên, có trách nhiệm báo cáo các số liệu về: Tỷ lệ KĐT loại IV trở lên có hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt yêu cầu; Tỷ lệ diện tích mặt nước, ao, hồ, kênh, mương, sông trong các KĐT, khu dân cư được cải tạo, phục hồi; Tỷ lệ diện tích cây xanh trong các KĐT, khu dân cư…
Bộ Xây dựng cũng đề nghị Bộ Tài nguyên và Môi trường không giao nhiệm vụ cho các bộ, ngành, chỉ giao nhiệm vụ cho các cơ quan thuộc Bộ Tài nguyên và Môi trường và UBND các địa phương triển khai các chương trình, dự án cụ thể để xử lý, khắc phục ô nhiễm, cải tạo, phục hồi môi trường, khi thực hiện Chiến lược BVMT quốc gia giai đoạn 2021 - 2030, để đảm bảo đủ nguồn lực thực hiện.
Có 45 cơ sở xử lý nước thải tập trung
Thực hiện Chiến lược BVMT quốc gia đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 với 06 chỉ tiêu BVMT đã được giao nhiệm vụ cụ thể trong Chiến lược, hàng năm Bộ Xây dựng đều tổng hợp số liệu gửi báo cáo Bộ Tài nguyên và Môi trường (2015 - 2018).
Cụ thể, tính đến tháng 12/2018, tỷ lệ nước thải đô thị được thu gom, xử lý đạt tiêu chuẩn, quy chuẩn quy định 12,5% (đối với đô thị loại IV trở lên). Cả nước có 45 cơ sở xử lý nước thải tập trung tại 29 địa phương (tăng thêm 03 địa phương so với năm 2017), tổng công suất thiết kế 959.000 m3/ng.đ (tăng 05 cơ sở so với năm 2017). Một số đô thị có cơ sở xử lý nước thải tập trung, hệ thống thoát nước thải riêng nhưng chưa hoàn chỉnh do gặp khó trong đấu nối thu nước thải, chưa khai thác hết công suất xử lý nước thải. Phần lớn đô thị cũ sử dụng hệ thống thoát nước chung bao gồm cả nước thải và nước mưa.
Tỷ lệ chất thải rắn sinh hoạt được thu gom, xử lý 86% với tổng khối lượng toàn quốc là gần 38.000 tấn/ng.đ, trong đó xử lý đạt tiêu chuẩn khoảng 32.000 tấn/ng.đ, trong đó tỷ lệ chôn lấp 70% gây ô nhiễm môi trường không khí xung quanh và nguồn nước, các địa phương gặp nhiều khó khăn trong áp dụng công nghệ xử lý chất thải rắn phù hợp.
Tỷ lệ mặt nước ao, hồ, kênh, mương, sông trong đô thị, khu vực dân cư được cải tạo, phục hồi, chưa có báo cáo cụ thể từ các địa phương. Năm 2018, mới chỉ có Nghệ An gửi báo cáo phản ánh chưa thống kê được số liệu do chưa có hướng dẫn thực hiện cũng như không có số liệu ban đầu (năm 2010) để đối chứng.
Tỷ lệ người dân đô thị được cung cấp nước sạch qua hệ thống cấp nước tập trung 86%, tỷ lệ thất thoát thất thu nước sạch 21% (đạt chỉ tiêu đề ra). Có trên 10 địa phương đạt trên 95% người dân đô thị được cung cấp nước sạch qua hệ thống cấp nước sạch tập trung và tỷ lệ thất thoát thất thu dưới 10%.
Tỷ lệ diện tích cây xanh công cộng trong các KĐT, khu dân cư cơ bản đạt và vượt so với quy định, năm 2018 chỉ có 13/24 địa phương được khảo sát có số liệu về đất cây xanh công cộng. Tuy nhiên, thực tế cho thấy công tác thống kê về chỉ tiêu đất cây xanh công cộng tại các địa phương chưa đầy đủ, dữ liệu thu thập không đồng nhất, có sự khác nhau về khái niệm dẫn đến sự chênh lệch trong xác định. Các số liệu có được chủ yếu vẫn dựa trên số liệu quy hoạch và cấp phép xây dựng nên thiếu cơ sở, chưa phản ánh đúng thực tế.
Diện tích mặt nước, ao, hồ, kênh, mương, sông trong các KĐT, khu dân cư, năm 2018 Bộ Xây dựng thu thập số liệu từ 24 địa phương nhưng chỉ có 03 địa phương báo cáo: An Giang 613ha, Bình Thuận 389ha và Lào Cai 21,8ha. Qua phản ánh của các địa phương chưa thống kê được số liệu là do chưa có hướng dẫn thực hiện cũng như không có số liệu ban đầu (năm 2010) để đối chứng.
Thanh Nga
Theo