(Xây dựng) - Bộ Kế hoạch và Đầu tư đang lấy ý kiến góp ý của nhân dân với dự thảo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ quy định về bộ tiêu chí đánh giá hiệu quả đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
Ảnh minh hoạ (Nguồn: Internet). |
Bộ Kế hoạch và Đầu tư (KH&ĐT) cho biết, sau hơn 30 năm thu hút đầu tư nước ngoài (ĐTNN), khu vực ĐTNN đã trở thành một bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế. Trong những năm qua, Việt Nam cũng đã và đang chuyển sang thu hút ĐTNN thế hệ mới có chất lượng và hiệu quả cao hơn.
Khu vực ĐTNN đã phát triển nhanh và đạt được những thành công nhất định, đóng góp tích cực vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Hoạt động đầu tư nước ngoài ngày càng sôi động, với nhiều tập đoàn đa quốc gia, doanh nghiệp lớn có công nghệ hiện đại tham gia đầu tư. Quy mô vốn và chất lượng dự án tăng, góp phần tạo việc làm, thu nhập cho người lao động; nâng cao trình độ, năng lực sản xuất; tăng thu ngân sách nhà nước, ổn định kinh tế vĩ mô; thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng; nâng cao vị thế và uy tín Việt Nam trên trường quốc tế.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, việc thu hút và sử dụng ĐTNN thời gian qua còn một số hạn chế, bất cập. Trước hết, phải kể đến việc liên kết và hiệu ứng lan tỏa năng suất và công nghệ của khu vực ĐTNN đến khu vực trong nước còn thấp. Bên cạnh đó, tỷ lệ vốn đầu tư thực hiện thấp so với vốn đầu tư đăng ký cũng là một vấn đề cần được quan tâm xử lý. Một số doanh nghiệp đầu tư nước ngoài chưa tuân thủ nghiêm túc quy định của pháp luật Việt Nam về bảo vệ môi trường. Ngoài ra, một số doanh nghiệp ĐTNN còn có hành vi chuyển giá, thiếu trung thực trong báo cáo tài chính để trốn thuế.
Các báo cáo ĐTNN hiện nay chủ yếu đánh giá ĐTNN dựa trên các chỉ tiêu kết quả thu hút và sử dụng ĐTNN cũng như đóng góp của khu vực ĐTNN cho nền kinh tế. Chưa có bộ tiêu chí đánh giá hiệu quả ĐTNN thống nhất ở các cấp, các ngành, các địa phương làm căn cứ cho việc đánh giá hiệu quả thu hút và sử dụng ĐTNN trên phạm vi quốc gia, ngành và vùng.
Do vậy, việc nghiên cứu, xây dựng tiêu chí đánh giá hiệu quả ĐTNN là cấp thiết khi Việt Nam đang chuyển sang chính sách hợp tác đầu tư nước ngoài chú trọng tới yếu tố chất lượng, hiệu quả, công nghệ và bảo vệ môi trường. Bộ tiêu chí đánh giá hiệu quả ĐTNN sẽ là công cụ hữu hiệu để đánh giá đúng đắn vị trí, vai trò và đóng góp của khu vực ĐTNN đối với sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước, đánh giá việc đạt được các mục tiêu trong công tác hợp tác ĐTNN và trên cơ sở đó, có cơ sở đưa ra các nhận định và giải pháp chính sách phù hợp để quản lý và sử dụng hiệu quả nguồn vốn ĐTNN cho công cuộc phát triển kinh tế xã hội đúng các định hướng và mục tiêu đã đề ra.
Bộ tiêu chí là công cụ để đánh giá chất lượng hoạt động của khu vực ĐTNN
Việc xây dựng bộ tiêu chí quy định chi tiết các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả đầu tư nước ngoài tại Việt Nam để áp dụng đồng bộ, thống nhất trên phạm vi quốc gia, địa phương và ngành nhằm tạo cơ sở pháp lý hoàn chỉnh để tổ chức thực hiện quy định về đánh giá hiệu quả đầu tư quy định tại điểm h, khoản 3 và điểm đ, khoản 4 Điều 69 Luật Đầu tư 2020; hướng tới hình thành công cụ hoàn chỉnh đánh giá hậu kiểm đối với các dự án ĐTNN nói riêng và dòng vốn ĐTNN nói chung để kết nối, đồng bộ với chiến lược thu hút đầu tư có chọn lọc; nhận diện các bất cập, hạn chế của dòng vốn ĐTNN còn chưa được khắc phục để có chính sách, giải pháp xử lý, góp phần phát triển kinh tế - xã hội bền vững.
Bộ tiêu chí là công cụ để phân tích, đánh giá chất lượng hoạt động của khu vực ĐTNN để có điều chỉnh chính sách phù hợp nhằm phục vụ định hướng thu hút đầu tư những dự án có quy mô lớn, thuộc các ngành công nghệ cao, đổi mới sáng tạo, có sự lan tỏa, giá trị gia tăng cao và đóng góp tích cực vào sự phát triển bền vững kinh tế - xã hội của Việt Nam.
Dự thảo Quyết định gồm 3 Điều quy định về phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng, trách nhiệm của các cơ quan liên quan, hiệu lực thi hành và phụ lục kèm theo là các tiêu chí cụ thể gồm các nội dung về tên tiêu chí, đơn vị tính, nội dung cách tính toán, cơ quan chủ trì tính toán, phân tổ chỉ tiêu, kỳ báo cáo và thời hạn báo cáo.
Khánh Diệp
Theo