(Xây dựng) - Công ty ông Nguyễn Đăng Hoàng (Hà Nội) mở thư bảo lãnh dự thầu tại một ngân hàng thương mại cổ phần. Công ty ông không trúng thầu và đề nghị ngân hàng giải tỏa thư bảo lãnh.
Ảnh minh họa (nguồn: TL). |
Tuy nhiên, ngân hàng cho biết phải đợi giải tỏa trong vòng 30 ngày sau khi hết thời hạn hiệu lực của hồ sơ dự thầu (thời hạn hết hiệu lực theo hồ sơ mời thầu là 120 ngày).
Ông Hoàng hỏi, ngân hàng làm như vậy có đúng quy định không?
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trả lời vấn đề này như sau:
Việc bảo lãnh dự thầu của ngân hàng đối với khách hàng phải tuân thủ quy định tại Luật Đấu thầu và Thông tư số 07/2015/TT-NHNN ngày 25/6/2015 quy định về bảo lãnh ngân hàng (đã được sửa đổi, bổ sung tại Thông tư số 13/2017/TT-NHNN ngày 29/9/2017). Theo đó, các quy định có liên quan đến vấn đề ông hỏi như sau:
Khoản 1, Điều 4 Luật Đấu thầu quy định: "Bảo đảm dự thầu là việc nhà thầu, nhà đầu tư thực hiện một trong các biện pháp đặt cọc, ký quỹ hoặc nộp thư bảo lãnh của tổ chức tín dụng hoặc chi nhánh ngân hàng nước ngoài được thành lập theo pháp luật Việt Nam để bảo đảm trách nhiệm dự thầu của nhà thầu, nhà đầu tư trong thời gian xác định theo yêu cầu của hồ sơ mời thầu, hồ sơ yêu cầu".
Khoản 4, 7 Điều 11 Luật Đấu thầu quy định: "4. Thời gian có hiệu lực của bảo đảm dự thầu được quy định trong hồ sơ mời thầu, hồ sơ yêu cầu bằng thời gian có hiệu lực của hồ sơ dự thầu, hồ sơ đề xuất cộng thêm 30 ngày.
… 7. Bên mời thầu có trách nhiệm hoàn trả hoặc giải tỏa bảo đảm dự thầu cho nhà thầu, nhà đầu tư không được lựa chọn theo thời hạn quy định trong hồ sơ mời thầu, hồ sơ yêu cầu nhưng không quá 20 ngày, kể từ ngày kết quả lựa chọn nhà thầu, nhà đầu tư được phê duyệt…".
Điều 14 Thông tư số 07/2015/TT-NHNN quy định, để thực hiện bảo lãnh, tổ chức tín dụng và khách hàng ký thỏa thuận cấp bảo lãnh. Thỏa thuận cấp bảo lãnh phải có các nội dung bắt buộc, trong đó bao gồm: Nghĩa vụ được bảo lãnh, hiệu lực của thỏa thuận cấp bảo lãnh.
Điều 15 Thông tư số 07/2015/TT-NHNN quy định cam kết bảo lãnh phải có các nội dung sau: Ngày hết hiệu lực và/hoặc trường hợp hết hiệu lực của bảo lãnh; nghĩa vụ bảo lãnh…
Khoản 1, Điều 19 Thông tư số 07/2015/TT-NHNN quy định: "Thời hạn hiệu lực của cam kết bảo lãnh được xác định từ ngày phát hành cam kết bảo lãnh hoặc sau ngày phát hành cam kết bảo lãnh theo thỏa thuận của các bên liên quan cho đến thời điểm hết hiệu lực của nghĩa vụ bảo lãnh quy định tại Điều 23 của Thông tư này".
Căn cứ các quy định trên, ông Hoàng cần làm việc với ngân hàng và các bên có liên quan để giải tỏa thư bảo lãnh dự thầu phù hợp với thỏa thuận của các bên tại thư bảo lãnh dự thầu và các quy định pháp luật có liên quan.
Hạ Nhiên
Theo