(Xây dựng) – Điều 95 Luật Nhà ở 2014 quy định rõ các nội dung liên quan đến cưỡng chế phá dỡ nhà ở.
Ảnh minh họa. |
Cụ thể, trường hợp nhà ở phải phá dỡ theo quy định tại Điều 92 của Luật Nhà ở 2014 mà chủ sở hữu nhà ở, chủ đầu tư công trình hoặc người đang quản lý, sử dụng không tự nguyện thực hiện việc phá dỡ nhà ở thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định tại khoản 2 Điều này ban hành quyết định cưỡng chế phá dỡ nhà ở.
Thẩm quyền ban hành quyết định cưỡng chế phá dỡ nhà ở được quy định như sau: Chủ tịch UBND cấp huyện ban hành quyết định cưỡng chế đối với trường hợp phá dỡ nhà ở để thu hồi đất quy định tại khoản 3 Điều 92 của Luật Nhà ở 2014, phá dỡ nhà ở riêng lẻ quy định tại các khoản 1, 4 và 5 Điều 92 của Luật Nhà ở 2014; Chủ tịch UBND cấp tỉnh ban hành quyết định cưỡng chế đối với trường hợp phá dỡ nhà chung cư quy định tại các khoản 1, 2, 4 và 5 Điều 92 của Luật Nhà ở 2014.
UBND huyện có trách nhiệm tổ chức cưỡng chế phá dỡ nhà ở theo quyết định cưỡng chế phá dỡ nhà ở quy định tại khoản 2 Điều này.
Kinh phí cưỡng chế phá dỡ nhà ở được quy định như sau: Chủ sở hữu nhà ở hoặc người đang quản lý, sử dụng nhà ở hoặc chủ đầu tư công trình phải chịu chi phí cưỡng chế phá dỡ và các chi phí có liên quan đến việc phá dỡ; Trường hợp chủ sở hữu nhà ở, người đang quản lý, sử dụng nhà ở, chủ đầu tư công trình không chi trả thì cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ra quyết định cưỡng chế áp dụng biện pháp cưỡng chế tài sản để bảo đảm kinh phí cho việc phá dỡ.
Ngoài ra, Điều 96 Luật Nhà ở 2014 quy định, chủ sở hữu nhà ở phải tự lo chỗ ở khi nhà ở bị phá dỡ.
Trường hợp phá dỡ nhà ở thuộc diện bị thu hồi đất thì chỗ ở của chủ sở hữu được giải quyết theo chính sách về nhà ở tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất theo quy định của Luật Nhà ở 2014 và pháp luật về đất đai.
Trường hợp phá dỡ nhà chung cư để cải tạo, xây dựng lại nhà chung cư mới thì chỗ ở của chủ sở hữu có nhà chung cư bị phá dỡ được giải quyết theo quy định tại Điều 116 của Luật Nhà ở 2014.
Diệu Anh
Theo