(Xây dựng) - Sự phát triển của các khu công nghiệp đóng vai trò quan trọng trong bức tranh kinh tế - xã hội của Việt Nam, cũng như phát triển bền vững các khu công nghiệp sẽ góp phần đáng kể vào việc hiện thực hóa các cam kết hướng tới mục tiêu phát thải ròng bằng “0” (NetZero) vào năm 2050, Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn 2050 và đặc biệt là tăng cơ hội đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ.
Phát triển khu công nghiệp xanh luồng gió mới thu hút vốn FDI – cơ hội cho công nghiệp hỗ trợ. (Ảnh minh hoạ) |
Ông Nguyễn Quang Vinh, Phó Chủ tịch Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) phát biểu tại Diễn đàn Thúc đẩy phát triển bền vững khu công nghiệp Việt Nam vừa được diễn ra mới đây tại Hà Nội, cho biết, cả nước đã có 418 khu công nghiệp (KCN) đã thành lập, bao gồm 371 KCN nằm ngoài các khu kinh tế (KKT), 39 KCN nằm trong các KKT ven biển, 8 KCN nằm trong các KKT cửa khẩu. Nếu tính riêng các KCN đã đi vào hoạt động, có tỷ lệ lấp đầy đạt khoảng 72,5%. Trong số 298 KCN đã đi vào hoạt động, đã có 272 KCN đã vận hành nhà máy xử lý nước thải tập trung đạt tiêu chuẩn môi trường (đạt tỷ lệ khoảng 91,3%), đáp ứng chỉ tiêu kế hoạch Quốc hội giao.
Ông Nguyễn Công Thịnh, Phó Vụ trưởng Vụ Khoa học Công nghệ và Môi trường, Bộ Xây dựng dẫn số liệu đến cuối tháng 12/2023, Việt Nam có khoảng 397 công trình xanh, trong đó rất đáng mừng là trên dưới 100 công trình xanh đến từ các khối công nghiệp. Riêng TP. Hải Phòng, trong quý 1/2024 đã có trên 10 dự án công nghiệp đăng ký đánh giá để chứng nhận công trình xanh. Đây là một xu hướng rất mới, đón đầu các yêu cầu về thuế carbon trên thế giới mà EU đã áp dụng thí điểm từ tháng 10/2023 và sẽ bắt buộc từ năm 2026.
Ông Trần Tiến Dũng, Uỷ viên VLA, Chủ tịch Hiệp hội Logistic Hải Phòng thông tin thêm, các doanh nghiệp FDI đến Việt Nam đều vào các khu công nghiệp, qua đó cho thấy vai trò quan trọng của các khu công nghiệp trong thu hút FDI. Tuy nhiên, cơ hội đón đầu xu hướng dịch chuyển chuỗi cung ứng trên toàn cầu để nhưng cơ hội này không chia đều cho các quốc gia dù Việt Nam có vị trí địa lý thuận lợi. Cần nhìn nhận thẳng thắn rằng, chúng ta chậm bước hơn so với nhiều quốc gia dù không có lợi thế về vị trí địa lý như Việt Nam nhưng họ đi nhanh hơn nhờ sớm chuyển đổi số, chuyển đổi xanh. Vì thế, phát triển bền vững là nội dung không phải là lựa chọn mà các nhà phát triển khu công nghiệp và ngành nghề liên quan bắt buộc phải làm.
Tại hội nghị COP26, Chính phủ cam kết thực hiện NetZero vào năm 2050. Từ nay đến thời điểm đó tuy dài nhưng các khách hàng cao cấp đến từ Mỹ, châu Âu đã cam kết Net Zero sớm hơn vào năm 2030. Vì vậy, “từ thời điểm này chúng ta phải phát triển bền vững để vừa cạnh tranh các nước trong thu hút FDI vừa cạnh tranh giữa các đơn vị cung cấp dịch vụ trong nước. Doanh nghiệp nào đi sớm, đi nhanh trong phát triển bền vững sẽ có nhiều cơ hội hơn để thu hút khách hàng phân khúc cao hơn”, ông Dũng nói.
Hạ tầng Khu công nghiệp được quan tâm, đang mở ra cơ hội lớn cho các doanh nghiệp Việt Nam tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu; thu hút đầu tư từ nước ngoài. Bênh cạnh đó, Nghị định số 111/2015/NĐ-CP về phát triển công nghiệp hỗ trợ; Quyết định số 68/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình phát triển công nghiệp hỗ trợ từ năm 2016 đến năm 2025.
Thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài trong các lĩnh vực thiết bị, linh kiện điện tự bán dẫn. (Ảnh minh hoạ) |
Với mong muốn thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài trong các lĩnh vực thiết bị, linh kiện điện tự bán dẫn, công nghiệp hỗ trợ, chuyển đổi số và thương mại điện tử, logistics, dệt may, da giày, các dự án năng lượng sạch, giảm phát thải CO2, các dự án liên quan đến công nghiệp ô tô, xe điện, thiết bị ý tế thực phẩm, hàng tiêu dùng và bán lẻ, Việt Nam đã đưa ra nhiều giải pháp phù hợp hỗ trợ doanh nghiệp và nhà đầu tư như cải cách thể chế, hành chính, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh; xây dựng khung pháp luật thuận lợi, ưu đãi hơn; hỗ trợ doanh nghiệp, miễn giảm thuế, hỗ trợ lãi suất…
Cùng với đó, tập trung đào tạo nguồn nhân lực, đặc biệt nguồn nhân lực chất lượng cao để phục vụ công nghiệp hỗ trợ; xúc tiến đầu tư phát triển công nghiệp hỗ trợ trong các lĩnh vực như điện, điện tử, may mặc, ô tô, da giày…
Việt Nam cũng đã thông qua Nghị quyết 115/NQ-CP thúc đẩy phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ giai đoạn 2020-2030. Theo đó, phát triển công nghiệp hỗ trợ tập trung vào các lĩnh vực công nghiệp điện tử, ngành kỹ thuật cơ khí, công nghiệp công nghệ cao và ngành công nghiệp ô tô. Dự kiến, đến năm 2030 sẽ có khoảng 2.000 công ty có khả năng cung cấp trực tiếp linh kiện, thiết bị cho các nhà lắp ráp và các tập đoàn đa quốc gia.
Ngoài ra, theo Nghị định số 111/2015/NĐ-CP, các dự án liên quan đến sản phẩm bảo vệ môi trường được ưu tiên tiếp cận nguồn vốn vay ưu đãi. Chính sách này không chỉ hỗ trợ doanh nghiệp giảm chi phí đầu tư ban đầu mà còn tạo điều kiện để phát triển các sản phẩm thân thiện với môi trường, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững và phù hợp với xu hướng toàn cầu hóa xanh.
Với nhiều chính sách hỗ trợ của Chính Phủ, đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ đã tăng mạnh. Chỉ tính trong 10 tháng đầu năm 2024, tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào Việt Nam đạt 27,26 tỷ USD, tăng 1,9% so với cùng kỳ năm 2023. Trong đó, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo chiếm ưu thế với 17,1 tỷ USD, tương đương 62,6% tổng vốn FDI đăng ký, mở ra nhiều cơ hội lớn cho các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ.
Tại TP. HCM, một trong những trung tâm công nghiệp hàng đầu cả nước, đã ghi nhận 197 dự án FDI cấp mới với tổng vốn 1,1 tỷ USD trong năm nay. Bên cạnh đó, 143 lượt dự án tăng vốn thêm 220,7 triệu USD, cùng với 178 lượt nhà đầu tư nước ngoài góp vốn, mua cổ phần trị giá 208,2 triệu USD, cho thấy sự quan tâm ngày càng lớn từ các nhà đầu tư quốc tế.
Thống kê của UBND TP Hà Nội cho thấy, hiện nay, trên địa bàn có khoảng hơn 900 doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ, với trên 320 doanh nghiệp có hệ thống sản xuất và sản phẩm đạt tiêu chuẩn quốc tế, đủ năng lực cung ứng vào mạng lưới sản xuất của các tập đoàn đa quốc gia tại Việt Nam, trong khu vực và trên thế giới
Hà Nội phấn đấu đến năm 2025, toàn TP có trên 1.000 doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực CNHT, hoàn thành mục tiêu tại Quyết định số 2316/QĐ-UBND ngày 05/6/2020 của UBND TP Hà Nội; khoảng 40% doanh nghiệp CNHT có hệ thống sản xuất và sản phẩm đạt tiêu chuẩn quốc tế, đủ năng lực cung ứng tham gia vào mạng lưới sản xuất toàn cầu của các tập đoàn đa quốc gia tại Việt Nam. Ngoài ra, chỉ số phát triển công nghiệp lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ tăng 12%.
Đặc biệt, dòng vốn FDI đầu tư vào Việt Nam đã có tính chọn lọc hơn, tập trung vào các lĩnh vực công nghệ xanh, sạch và đi vào những lĩnh vực có hàm lượng công nghệ cao như sản xuất chip, chất bán dẫn. Điển hình là Tập đoàn Amkor đầu tư 1,6 tỷ USD vào Khu công nghiệp Yên Phong 2 (Bắc Ninh) để xây dựng nhà máy sản xuất, lắp ráp và thử nghiệm vật liệu, thiết bị bán dẫn.
Đây cũng là nhà máy bán dẫn lớn nhất thế giới của Amkor; Hana Micron Vina (Hàn Quốc) - doanh nghiệp sản xuất và gia công bảng vi mạch tích hợp sử dụng cho điện thoại di động và các sản phẩm điện tử thông minh khác - cũng đã chính thức khánh thành nhà máy sản xuất chất bán dẫn của Công ty Hana Micron Vina tại Khu công nghiệp Vân Trung, huyện Việt Yên (Bắc Giang)...
Vũ Phong Cầm
Theo