(Xây dựng) - Để sớm khắc phục bất cập trong công tác quản lý và phát triển đô thị, Bộ Xây dựng đã tham mưu Chính phủ trình Quốc hội đề nghị xây dựng Luật Quản lý phát triển đô thị (QLPTĐT) và đã được Quốc hội đưa vào Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2025.
Thời gian qua, hệ thống đô thị cả nước tăng nhanh về số lượng, chất lượng. |
Bảo đảm sự thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật
Nhằm cụ thể hóa quan điểm chỉ đạo của Đảng về phát triển đô thị (PTĐT), triển khai Nghị quyết số 06-NQ/TW của Bộ Chính trị về quy hoạch, xây dựng, quản lý và phát triển bền vững đô thị Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; được sự chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Xây dựng đã phối hợp với các Bộ ngành, địa phương nghiên cứu tham mưu Chính phủ trình Quốc hội đề nghị xây dựng Luật QLPTĐT và được Quốc hội đưa vào Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2025.
Theo Cục trưởng Cục Phát triển đô thị Trần Quốc Thái, dự thảo Luật QLPTĐT gồm 7 Chương, được xây dựng trên cơ sở 5 chính sách cơ bản đã được Quốc hội thông qua, đó là: QLPTĐT theo mô hình phát triển bền vững đô thị và có hệ thống; Đánh giá và phân loại đô thị; Quản lý phát triển mới, cải tạo chỉnh trang và tái PTĐT; Quản lý phát triển hệ thống hạ tầng đô thị đồng bộ, quản lý phát triển không gian ngầm đô thị; Nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác QLPTĐT.
Luật QLPTĐT là một Luật phức tạp, phạm vi rộng, liên quan tới hơn 900 đô thị, thuộc 6 loại đô thị với nhiều tính chất đặc thù từ quy mô, địa điểm, lịch sử phát triển, vùng, miền… Dự thảo Luật được xây dựng trong bối cảnh có nhiều Luật liên quan đã và đang được nghiên cứu, xây dựng và ban hành. Đây vừa là thuận lợi, nhưng cũng là khó khăn khi phải bảo đảm sự thống nhất, đồng bộ chung của hệ thống pháp luật.
Tác động tích cực đến đô thị hóa
Đánh giá về sự PTĐT trong thời gian qua, Bộ Xây dựng cho biết: Hệ thống đô thị cả nước tăng nhanh về số lượng, hình thành các vùng đô thị hóa cùng với chuỗi, chùm đô thị phân bố rộng khắp các vùng, miền. Hiện nay, cả nước có 902 đô thị, tỷ lệ đô thị hóa đạt khoảng 43,1%; tổng số các đô thị từ loại IV trở lên đạt gần 200 đô thị.
Đáng chú ý, đô thị hóa tăng nhanh tại các vùng kinh tế trọng điểm, vùng đô thị lớn phân bố đồng đều hơn trên phạm vi cả nước. Nhiều đô thị mới hình thành và phát triển, đô thị hiện hữu từng bước được nâng cấp cải tạo, mở rộng về quy mô đất đai, hạ tầng, bộ mặt đô thị thay đổi theo hướng văn minh, hiện đại. Những kết quả tích cực trong quản lý PTĐT đã đóng góp quan trọng để các đô thị phát huy vai trò thúc đẩy phát triển kinh tế các vùng, miền và là động lực chủ đạo trong công cuộc xây dựng phát triển đất nước.
Bên cạnh những thành tựu nổi bật, thực trạng PTĐT Việt Nam còn tồn tại hạn chế tác động đến sự phát triển bền vững… Bộ Xây dựng đánh giá: Những tồn tại, hạn chế của thực trạng PTĐT một phần là do tác động của yếu tố khách quan như: Sự biến động suy thoái kinh tế thế giới, sự diễn biến phức tạp, khó lường của biến đổi khí hậu, thiên tai, đại dịch trong thời gian qua. Nhưng nguyên nhân chủ quan là chủ yếu, trong đó có các nguyên nhân xuất phát từ hệ thống quy định quy phạm pháp luật liên quan đến quản lý, PTĐT.
Các đại đô thị Vinhomes dành hàng trăm héc-ta quỹ đất cho các "kỳ quan đô thị" xanh. |
Điều chỉnh vấn đề phát sinh từ thực tiễn
Quan điểm xây dựng dự án Luật QLPTĐT là thể chế hóa quan điểm chỉ đạo của Đảng, chính sách của Nhà nước về xây dựng và phát triển bền vững đô thị Việt Nam và nhiệm vụ hoàn thiện thể chế, xây dựng hệ thống quy phạm pháp luật trong giai đoạn hiện nay. Bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp, thống nhất, đồng bộ và hiệu lực của hệ thống pháp luật. Kế thừa, phát huy và luật hóa các quy định đã được chứng minh là phù hợp, có hiệu quả trong thực tiễn...
Phát triển hệ thống đô thị bền vững theo mạng lưới, phân bổ hợp lý, phù hợp với từng vùng, miền, bảo đảm đồng bộ, thống nhất, cân đối giữa các vùng, miền; đô thị hình thành, xây dựng mới, vận hành, phát triển, cải tạo chỉnh trang, tái thiết có trật tự, theo quy hoạch và có kế hoạch, trong đó quy hoạch đô thị và phát triển kết cấu hạ tầng đô thị phải đi trước một bước; bảo vệ, sử dụng tiết kiệm, hiệu quả tài nguyên tự nhiên, nhất là tài nguyên đất đai.
Bên cạnh đó, sẽ tạo điều kiện, tiền đề để từng bước phát triển các đô thị theo hướng đô thị xanh, thông minh, thích ứng với biến đổi khí hậu; đề cao vai trò trách nhiệm chính quyền các đô thị, cộng đồng dân cư và các tổ chức chính trị - xã hội tham gia quản lý đô thị, thực hiện phân cấp, phân quyền và nâng cao hiệu quả, hiệu lực quản lý nhà nước về phát triển đô thị.
Các chuyên gia ngành Xây dựng nhận định: Thực tế quy hoạch, xây dựng, quản lý đô thị đặt ra nhiều yêu cầu, trong đó có yêu cầu xây dựng hệ thống pháp luật về quản lý, PTĐT. Tuy nhiên, Luật QLPTĐT là luật mới, rất khó và có phạm vi rộng, do đó cần nghiên cứu kỹ, làm rõ nội hàm mang tính quản lý nhà nước như: Trách nhiệm và quyền hạn của các đối tượng áp dụng; các chỉ tiêu về hệ thống hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội của đô thị; làm rõ các khái niệm về các đô thị đặc thù (đô thị di sản, đô thị biển, đô thị núi, đô thị sinh thái…).
Bộ trưởng Bộ Xây dựng Nguyễn Thanh Nghị cho biết: Phạm vi điều chỉnh của Dự thảo Luật QLPTĐT liên quan đến nhiều văn bản pháp luật hiện có và đang xây dựng như Luật Quy hoạch đô thị và nông thôn, Luật Đất đai, Luật Xây dựng… Do vậy, Bộ Xây dựng sẽ tiếp thu các ý kiến đóng góp để rà soát, tránh chồng chéo. Bộ tiếp tục rà soát quy định, từ ngữ, các điều khoản để nội dung dự thảo Luật sát với vấn đề cần điều chỉnh như nguyên tắc phát triển đô thị; phân cấp phân loại đô thị; tiêu chí loại hình đô thị đặc thù như đô thị xanh, thông minh, thích ứng với biến đổi khí hậu, phòng, chống thiên tai và dịch bệnh; bổ sung chế tài để thực hiện quy định; quy định rõ hơn nội dung quản lý kiểm soát quá trình đô thị hóa, PTĐT phải theo quy hoạch, kế hoạch; nghiên cứu cụ thể hoá các quy định về hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội, quản lý sử dụng không gian ngầm...
Theo Bộ Xây dựng, việc ban hành Luật QLPTĐT nhằm cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp năm 2013; thể chế hóa quan điểm chỉ đạo, mục tiêu và nhiệm vụ trọng tâm về phát triển bền vững đô thị Việt Nam được xác định tại Nghị quyết số 06-NQ/TW của Bộ Chính trị và các văn bản chỉ đạo khác của Đảng và Nhà nước. Đồng thời, để điều chỉnh những vấn đề phát sinh từ thực tiễn quá trình đô thị hóa và PTĐT trong giai đoạn hiện nay và các năm tiếp theo, góp phần phát triển bền vững hệ thống đô thị Việt Nam và từng đô thị trong hệ thống. |
Mai Thu
Theo