(Xây dựng) - Bệnh uốn ván là bệnh truyền nhiễm cực kỳ nguy hiểm do trực khuẩn uốn ván gây ra. Tác nhân gây bệnh uốn ván tồn tại chủ yếu dưới dạng nha bào và có mặt ở khắp nơi trong đất cát, môi trường, cống rãnh xung quanh chúng ta.
Tiêm vắc xin uốn ván là biện pháp quan trọng và hữu hiệu nhất để phòng bệnh uốn ván sơ sinh cho cả mẹ và con (ảnh minh họa)
Bệnh uốn ván sơ sinh (UVSS) là bệnh xảy ra ở trẻ sơ sinh do vi khuẩn uốn ván xâm nhập vào cơ thể trẻ chủ yếu qua đường rốn trong quá trình sinh đẻ, cắt rốn hoặc chăm sóc rốn sau đẻ không đảm bảo vô trùng. Trẻ bị mắc bệnh uốn ván sơ sinh có biểu hiện lâm sàng và diễn biến rất nặng, trẻ bị co cứng, co giật và hầu hết đều tử vong. Đây là bệnh truyền nhiễm có tỷ lệ tử vong hàng đầu trong các bệnh ở trẻ em. Ngoài ra bệnh uốn ván cũng có thể xảy ra cho chính các bà mẹ trong quá trình sinh đẻ nếu cuộc đẻ không được đảm bảo vô trùng. Bệnh uốn ván sơ sinh hay gặp ở vùng miền núi, vùng nông thôn nơi có tỷ lệ đẻ tại nhà cao, đẻ và chăm sóc rốn không đảm bảo.
Trên Thế giới hàng năm có khoảng 500.000 trẻ em chết vì UVSS, trung bình mỗi phút có 1 trẻ bị chết do UVSS. Chính vì vậy vào năm 1989, đại hội đồng Y tế Thế giới đã họp và thống nhất nhận định UVSS là vấn đề y tế công cộng rất nghiêm trọng liên quan đến sự sống còn của trẻ em cũng như của các bà mẹ và đặt mục tiêu loại trừ uốn ván sơ sinh trên phạm vi toàn cầu.
Tiêm vắc xin uốn ván là biện pháp quan trọng và hữu hiệu nhất để phòng bệnh uốn ván sơ sinh cho cả mẹ và con. Bản chất của vắc xin uốn ván là giải độc tố uốn ván tức là vắc xin được bào chế từ độc tố của vi khuẩn đã được làm mất tính độc, không phải làm từ vi khuẩn sống nên rất an toàn cho cả mẹ và con.
Lịch tiêm uốn ván đầy đủ cho phụ nữ bao gồm 5 liều: liều 1 tiêm sớm khi có thai lần đầu hoặc cho nữ trong độ tuổi sinh đẻ tại vùng nguy cơ cao (nếu chỉ tiêm 1 liều sẽ không tạo ra được kháng thể đủ để bảo vệ cho cả mẹ và con); liều 2 tiêm sau liều thứ nhất ít nhất 1 tháng; liều 3 sau liều 2 ít nhất 6 tháng hoặc lần có thai sau; liều 4 sau liều 3 ít nhất 1 năm hoặc lần có thai sau; liều 5 sau liều 4 ít nhất 1 năm hoặc lần có thai sau. Sau khi tiêm vắc xin uốn ván cho phụ nữ có thai, kháng thể hình thành trong cơ thể mẹ sẽ truyền cho thai nhi để bảo vệ cho trẻ không bị mắc uốn ván sơ sinh, đồng thời kháng thể này cũng bảo vệ cho chính bà mẹ trong quá trình sinh đẻ không bị mắc uốn ván.
Tại Việt nam, bệnh UVSS giai đoạn trước năm 1991 là rất nặng nề, hàng năm có tới vài trăm đến hàng nghìn trường hợp trẻ em chết do UVSS được báo cáo trên phạm vi cả nước. Trước tình hình nghiêm trọng đó, năm 1993, Bộ Y tế Việt Nam đã chính thức xây dựng kế hoạch và triển khai các hoạt động loại trừ uốn ván sơ sinh trên phạm vi cả nước. Mục tiêu của loại trừ UVSS là nhằm làm giảm số mắc UVSS dưới 1/1000 trẻ đẻ sống theo đơn vị huyện trong 1 năm.
Các hoạt động loại trừ uốn ván sơ sinh được triển khai đồng bộ, rộng khắp trên cả nước với 3 chiến lược chính là: 1). Tiêm vắc xin uốn ván cho tất cả phụ nữ có thai và tiêm vắc xin uốn ván cho nữ trong độ tuổi 15 - 35 tại những huyện nguy cơ cao; 2). Tăng cường thực hành đỡ đẻ sạch tại các cơ sở y tế đặc biệt là tuyến xã; 3). Tăng cường giám sát chết sơ sinh và uốn ván sơ sinh một cách có hệ thống.
Việc tiêm vắc xin uốn ván miễn phí cho phụ nữ có thai được thực hiện thường xuyên liên tục tại tất cả các điểm tiêm chủng trên phạm vi cả nước cùng với các vắc xin khác trong chương trình tiêm chủng mở rộng. Hàng năm ở nước ta khoảng 1,6 triệu phụ nữ có thai được tiêm chủng an toàn và tỷ lệ tiêm vắc xin uốn ván cho phụ nữ có thai và phụ nữ tuổi sinh đẻ ở nước ta luôn đạt trên 80% trong suốt nhiều năm liên tục.
Qua nhiều năm bền bỉ với những nỗ lực rất lớn của toàn hệ thống y tế, đặc biệt là của chương trình tiêm chủng mở rộng, số ca mắc uốn ván sơ sinh và mắc uốn ván của bà mẹ đã giảm vài chục lần so với giai đoạn trước năm 1991. Và dấu mốc quan trọng nhất đã đến khi vào năm 2005 Việt Nam đã chính thức được Tổ chức Y tế Thế giới công nhận đạt mục tiêu loại trừ bệnh uốn ván sơ sinh trên quy mô toàn quốc. Thành quả này là một trong những thành quả quan trọng nhất cùng với việc thanh toán bệnh bại liệt mà chương trình tiêm chủng mở rộng đã đạt được trong thời gian qua và cũng là niềm tự hào của ngành y tế nước ta.
Trong thời gian tới để duy trì được thành quả loại trừ uốn ván sơ sinh mà chúng ta đã nỗ lực đạt được thì các chiến lược loại trừ uốn ván sơ sinh phải tiếp tục được duy trì và đẩy mạnh, đặc biệt là chiến lược tiêm vắc xin uốn ván cho phụ nữ có thai trên toàn quốc và tiêm cho phụ nữ tuổi sinh đẻ ở những vùng nguy cơ cao. Việc duy trì thành quả loại trừ uốn ván sơ sinh sẽ góp phần quan trọng trong việc bảo vệ và chăm sóc sức khỏe cho bà mẹ và trẻ em ở nước ta, đặc biệt trong việc đạt được mục tiêu thiên niên kỷ về giảm tỷ lệ tử vong ở trẻ em và cải thiện sức khỏe cho các bà mẹ.
Khánh Phương
Theo