Thứ sáu 26/04/2024 18:56 24h qua English RSS
Hotline: 094 540 6866

Nâng cao chất lượng đô thị hóa, phát triển đô thị bền vững

08:55 | 16/11/2022

(Xây dựng) - Ngày 24/01/2022, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 06-NQ/TW về Quy hoạch, xây dựng, quản lý và phát triển bền vững đô thị Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn 2045. Nghị quyết là cơ sở, căn cứ chính trị quan trọng cho sự ra đời của cơ chế, chính sách mới, tạo động lực để phát triển đô thị, góp phần quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội nhanh, bền vững. Đây là lần đầu tiên Bộ Chính trị ban hành nghị quyết chuyên đề riêng về phát triển đô thị.

Nâng cao chất lượng đô thị hóa, phát triển đô thị bền vững

Đô thị hóa và phát triển đô thị trở thành động lực quan trọng phát triển kinh tế - xã hội

Nghị quyết số 06-NQ/TW gồm 4 phần liên quan chặt chẽ với nhau, gồm: Tình hình và nguyên nhân; Quan điểm chỉ đạo, mục tiêu và tầm nhìn; Các nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu; Tổ chức thực hiện.

Nghị quyết số 06-NQ/TW khẳng định: Sau 35 năm đổi mới, nhất là trong 10 năm vừa qua, công tác quy hoạch, xây dựng, quản lý và phát triển đô thị ở nước ta đã đạt được nhiều kết quả rất quan trọng. Đến cuối năm 2020, hệ thống đô thị nước ta đã có 862 đô thị các loại, phân bổ tương đối đồng đều trong cả nước. Tỷ lệ đô thị hóa xác định theo địa bàn có chức năng đô thị đã tăng từ 30,5% năm 2010 lên gần 40% năm 2020. Không gian đô thị được mở rộng. Hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng kinh tế - xã hội được quan tâm đầu tư theo hướng ngày càng đồng bộ và hiệu quả hơn. Chất lượng sống của cư dân đô thị từng bước được nâng cao...

Đô thị hóa và phát triển đô thị trở thành động lực quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội. Kinh tế ở khu vực đô thị phát triển ở mức cao đóng góp khoảng 70% GDP cả nước. Bước đầu hình thành cực tăng trưởng kinh tế, trung tâm đổi mới sáng tạo khoa học công nghệ, giáo dục đào tạo ở các đô thị lớn, nhất là Thủ đô Hà Nội và TP.HCM.

Tỷ lệ đô thị hóa đạt thấp hơn mục tiêu đề ra

Bên cạnh đó, Nghị quyết số 06-NQ/TW cũng chỉ ra một số tồn tại hạn chế trong quy hoạch, xây dựng, quản lý và phát triển đô thị. Theo đó, tỷ lệ đô thị hóa đạt được thấp hơn mục tiêu đề ra trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011 - 2020 và còn khoảng cách khá xa so với tỷ lệ bình quân của khu vực và thế giới.

Nâng cao chất lượng đô thị hóa, phát triển đô thị bền vững

Chất lượng đô thị hóa chưa cao, phát triển đô thị theo chiều rộng là chủ yếu gây lãng phí về đất đai, mức độ tập trung kinh tế còn thấp. Quá trình đô thị hóa và phát triển đô thị chưa gắn kết chặt chẽ và đồng bộ với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và xây dựng nông thôn mới. Khả năng tiếp cận dịch vụ công và phúc lợi xã hội của người nghèo và lao động di cư tại đô thị còn thấp và nhiều bất cập. Năng lực quản lý và quản trị đô thị còn yếu, chậm được đổi mới.

Nghị quyết số 06-NQ/TW cũng chỉ ra các nguyên nhân chủ quan của hạn chế yếu kém như: Nhận thức về đô thị hóa và phát triển đô thị bền vững còn chưa đầy đủ, chưa được quan tâm đúng mức. Công tác quy hoạch đô thị chậm đổi mới thiếu tầm nhìn, chất lượng thấp. Việc triển khai thực hiện còn nhiều hạn chế. Nhiều nơi việc điều chỉnh quy hoạch còn tùy tiện.

Thể chế chính sách về đô thị, phát triển đô thị còn thiếu đồng bộ và ổn định. Quản lý đô thị chưa chuyên nghiệp, nhiều nơi còn lỏng lẻo, tiêu cực. Sự phân công, phối hợp thực hiện quản lý nhà nước về phát triển đô thị chưa rõ ràng, thiếu chặt chẽ, thiếu thống nhất. Chưa xây dựng được mô hình chính quyền đô thị phù hợp thống nhất trong cả nước…

Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước

Trên cơ sở đánh giá kết quả đạt được và hạn chế, nguyên nhân của hạn chế, phân tích bối cảnh mới trong nước và quốc tế, những vấn đề đặt ra đối với công tác quy hoạch, xây dựng, quản lý và phát triển đô thị, Bộ Chính trị đã đưa ra các quan điểm chỉ đạo trong thời gian tới.

Bộ Chính trị khẳng định: Đô thị hóa là tất yếu khách quan, là động lực quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững trong thời gian tới. Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước; Thống nhất nhận thức và hành động trong hoàn thiện thể chế, quy hoạch, xây dựng, quản lý và phát triển đô thị bền vững theo hướng đô thị xanh, văn minh, giàu bản sắc, có tính chất tiên phong, dẫn dắt các hoạt động đổi mới sáng tạo, trở thành động lực phát triển là nhiệm vụ thường xuyên, quan trọng của các hệ thống chính trị.

Nâng cao chất lượng đô thị hóa, phát triển đô thị bền vững

Đổi mới tư duy, lý luận và phương pháp quy hoạch đô thị; Bảo đảm quy hoạch đô thị phải có tầm nhìn dài hạn, đồng bộ và hiện đại, lấy con người và chất lượng cuộc sống làm trung tâm; Văn hóa và văn minh đô thị làm nền tảng phát triển; Kết hợp hài hòa giữa quá trình đô thị hóa, phát triển đô thị với công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng nông thôn mới, cơ cấu lại nền kinh tế, quản lý phát triển xã hội gắn với bảo đảm quốc phòng, an ninh. Quy hoạch đô thị và phát triển kết cấu hạ tầng đô thị phải đi trước một bước và tạo ra nguồn lực chủ yếu cho phát triển đô thị. Kiên quyết xóa bỏ tư duy nhiệm kỳ và quy hoạch treo, cơ chế xin - cho, lợi ích nhóm trong xây dựng, điều chỉnh và bổ sung quy hoạch.

Tập trung hoàn thiện hệ thống pháp luật và ban hành các cơ chế chính sách có tính đột phá, vượt trội cho phát triển đô thị bền vững, thúc đẩy kinh tế đô thị tăng trưởng nhanh, hiệu quả. Bảo đảm kết hợp đồng bộ và hài hòa giữa cải tạo, chỉnh trang, tái thiết đô thị với phát triển các đô thị mới, bảo đảm kiến trúc đô thị hiện đại, giàu bản sắc, các yếu tố văn hóa đặc trưng được gìn giữ và phát huy, phát triển mạnh mẽ liên kết ngành, liên kết vùng và lợi thế kết nối đa chiều của các đô thị. Bảo đảm chất lượng sống ở đô thị ở mức cao, đáp ứng cơ bản nhu cầu về nhà ở và hạ tầng xã hội cho dân cư đô thị.

Nâng cao chất lượng đô thị hóa, phát triển đô thị bền vững

Phát triển hệ thống đô thị bền vững theo mạng lưới, phân bổ hợp lý, phù hợp với từng vùng miền, bảo đảm đồng bộ, thống nhất, cân đối giữa các vùng miền. Phát triển các đô thị có chức năng tổng hợp với quy mô và dân số ở mức hợp lý theo hướng đô thị xanh, thông minh, thích ứng với biến đổi khí hậu, phòng, chống thiên tai và dịch bệnh, bảo đảm tính kết nối cao giữa các đô thị trực thuộc Trung ương, đô thị trung tâm cấp quốc gia với đô thị vùng và khu vực nông thôn. Lựa chọn các đô thị có tính cạnh tranh cao để xây dựng thành các trung tâm kinh tế tài chính, lựa chọn các đô thị có lợi thế đặc biệt để xây dựng thành các trung tâm kinh tế, tài chính, thương mại, dịch vụ có khả năng cạnh tranh khu vực và quốc tế cao.

Thực hiện phân cấp và phân quyền mạnh mẽ hơn cho chính quyền các đô thị gắn với đề cao trách nhiệm bảo đảm sự lãnh đạo, chỉ đạo quản lý thống nhất của Trung ương, phát huy và khai thác tốt các nguồn lực từ chính đô thị và nguồn lực từ xã hội cho phát triển đô thị, tạo mọi điều kiện và khuyến khích các khu vực kinh tế nhất là kinh tế tư nhân tham gia đầu tư phát triển đô thị. Xử lý nghiêm minh các sai phạm trong thực hiện các quy định pháp luật.

Đẩy nhanh tốc độ và nâng cao chất lượng đô thị hóa, phát triển đô thị bền vững

Căn cứ vào các mục tiêu phát triển đất nước đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2045 đã được đưa ra tại Đại hội lần thứ XIII của Đảng, bám sát các quan điểm chỉ đạo, Nghị quyết số 06-NQ/TW đã xác định mục tiêu tổng quát: Đẩy nhanh tốc độ và nâng cao chất lượng đô thị hóa, phát triển đô thị bền vững theo mạng lưới, hình thành một số đô thị, chuỗi đô thị động lực thông minh kết nối với khu vực và thế giới. Thể chế, chính sách về quy hoạch, xây dựng quản lý và phát triển đô thị bền vững cơ bản được hoàn thiện. Kết cấu hạ tầng của đô thị nhất là hạ tầng kỹ thuật khung và hạ tầng xã hội thiết yếu được xây dựng và phát triển đồng bộ, hiện đại. Kinh tế khu vực đô thị tăng trưởng nhanh, hiệu quả và bền vững. Chất lượng sống tại đô thị ở mức cao, bảo đảm đáp ứng cơ bản nhu cầu về nhà ở và hạ tầng xã hội cho cư dân đô thị. Phát triển kiến trúc đô thị hiện đại, xanh, thông minh, giàu bản sắc, các yếu tố văn hóa đặc trưng được giữ gìn và phát huy.

Nâng cao chất lượng đô thị hóa, phát triển đô thị bền vững

Nghị quyết 06-NQ/TW đồng thời đặt ra các chỉ tiêu cụ thể: Tỷ lệ đô thị hóa đến năm 2025 đạt tối thiểu 45%, đến năm 2030 đạt trên 50%. Tỷ lệ đất xây dựng đô thị trên tổng diện tích đất tự nhiên đạt khoảng 1,5 - 1,9% vào năm 2025, đến năm 2030 đạt khoảng 1,9 - 2,3%.

Số lượng đô thị toàn quốc đến năm 2025 khoảng 950 - 1.000 đô thị, đến năm 2030 khoảng 1.000 - 1.200 đô thị. Đến năm 2025, 100% các đô thị hiện có và đô thị mới có quy hoạch tổng thể, quy hoạch phân khu, chương trình cải tạo, chỉnh trang, tái thiết và phát triển đô thị; bảo đảm tối thiểu 100% đô thị loại III trở lên hoàn thiện tiêu chí phân loại đô thị về cơ sở hạ tầng đô thị, nhất là hạ tầng về y tế, giáo dục, đào tạo và công trình văn hoá cấp đô thị.

Đến năm 2030, hình thành một số trung tâm đô thị cấp quốc gia, cấp vùng đạt các chỉ tiêu về y tế, giáo dục và đào tạo, văn hóa cấp đô thị tương đương mức bình quân của các đô thị thuộc nhóm 4 nước dẫn đầu ASEAN.

Tỷ lệ đất giao thông trên đất xây dựng đô thị đạt khoảng 11 - 16% vào năm 2025, 16 - 26% vào năm 2030. Diện tích cây xanh bình quân trên mỗi người dân đô thị đạt khoảng 6 - 8 m2 vào năm 2025, khoảng 8 - 10 m2 vào năm 2030. Diện tích sàn nhà ở bình quân đầu người tại khu vực đô thị đạt tối thiểu 28 m2 vào năm 2025, đến năm 2030 đạt tối thiểu 32 m2.

Kinh tế khu vực đô thị đóng góp vào GDP cả nước khoảng 75% vào năm 2025 và khoảng 85% vào năm 2030. Tỷ trọng kinh tế số trong GRDP của các đô thị trực thuộc Trung ương đạt bình quân 25 - 30% vào năm 2025, 35 - 40% vào năm 2030. Xây dựng được mạng lưới đô thị thông minh trung tâm cấp quốc gia và cấp vùng kết nối quốc tế và 3 - 5 đô thị có thương hiệu được công nhận tầm khu vực và quốc tế vào năm 2030.

Tầm nhìn đến năm 2045: Tỷ lệ đô thị hoá thuộc nhóm trung bình cao của khu vực ASEAN và châu Á. Hệ thống đô thị liên kết thành mạng lưới đồng bộ, thống nhất, cân đối giữa các vùng, miền, có khả năng chống chịu, thích ứng với biến đổi khí hậu, phòng, chống thiên tai, dịch bệnh, bảo vệ môi trường, kiến trúc tiêu biểu giàu bản sắc, xanh, hiện đại, thông minh. Xây dựng được ít nhất 5 đô thị đạt tầm cỡ quốc tế, giữ vai trò là đầu mối kết nối và phát triển với mạng lưới khu vực và quốc tế. Cơ cấu kinh tế khu vực đô thị phát triển theo hướng hiện đại với các ngành kinh tế xanh, kinh tế số chiếm tỉ trọng lớn.

Quý Anh

Theo

Cùng chuyên mục
Xem thêm
...

Tin bài cuối cùng

Không còn dữ liệu để load