Thứ sáu 26/04/2024 12:09 24h qua English RSS
Hotline: 094 540 6866

Làng hoa đầu tiên giữa phố hoa Đà Lạt

16:48 | 17/01/2012

Nơi cao nguyên Lâm Viên xa xôi có một phần “máu thịt của Thủ đô”- những cư dân từ các làng bên hồ Tây như Quảng Bá, Nghi Tàm, Tây Tựu, Vạn Phúc, Xuân Tảo, Ngọc Hà đã giã biệt cố hương “hành phương Nam” lập nghiệp từ thập niên ba mươi của thế kỷ trước. Những lưu dân xa xứ đến từ Hà Đông xưa (Hà Nội ngày nay) đã lập nên một vùng cư dân mới từ những ngày Đà Lạt còn là một đô thị non trẻ - đó là ấp Hà Đông - một trong ba ấp đầu tiên của thành phố dưới chân Trường Sơn Nam. Đó cũng là làng hoa đầu tiên, nơi khởi lập phố hoa Đà Lạt …

Người tiếp chuyện chúng tôi trong một buổi chiều của mấy năm trước là một trong những bậc lão niên có mặt từ buổi đầu dựng nghiệp của ấp. Cụ tên là Ngô Văn Bính, quê xưa của cụ ở làng Quảng Bá. Anh cả Bính ngày xưa làm cu-ly sắp chữ ở tòa báo La Voulte đóng trụ sở ở Hà Nội. Một ngày, trên chính tờ báo nơi anh đang làm việc có đăng dòng tin tuyển mộ người di dân vào lập cư ở cao nguyên Đà Lạt nhằm khai thác đất hoang trồng rau, hoa phục vụ cho đô thị nghỉ dưỡng này. Đang tuổi thanh niên tráng kiện và sẵn tính thích phiêu lưu, cả Bính đã không ngần ngại dứt áo lên đường đến với vùng đất mới. Năm ấy, anh mới bước sang tuổi 18. Cả Bính hòa vào dòng lưu dân là những người đồng hương ở các làng Quảng Bá, Nghi Tàm, Tây Tựu, Vạn Phúc, Ngọc Hà, Xuân Tảo và đã trở thành công dân mới của cao nguyên Lâm Viên và là một trong những thành viên đầu tiên của ấp Hà Đông. Theo dòng hồi ức, lịch sử như được tái hiện lại trong đáy mắt nhòe sương của vị lão bối dù gần một thế kỷ rồi vẫn khôn nguôi nỗi nhớ cố hương. Cụ Bính say sưa kể cho chúng tôi nghe những câu chuyện thưở xa xưa ấy hòa lẫn giữa những kỷ niệm đầy gian khổ của thời khởi đầu lập cư trên đất mới với những hoài niệm khó phai về những người thân thuộc, về cố hương thân yêu bên bờ hồ Tây…

Theo dòng hồi ức của cụ Ngô Văn Bính, chúng tôi đã lần giở lại những trang tư liệu cũ về vùng cư dân mới độc đáo này. Vào hồi đầu thế kỷ trước, Đà Lạt đã bắt đầu phát triển theo hướng một đô thị nghỉ dưỡng hiện đại trên cao nguyên Trung phần. Năm 1936, triều đình Huế đã lập ra tại đây một cơ quan hành chính đại diện cho người Việt cùng tồn tại bên cạnh Tòa Đốc lý của Thực dân Pháp. Vị Quản đạo đầu tiên của Đà Lạt là quan tứ phẩm Trần Văn Lý. Ngay từ ngày nhậm chức, ông Lý đã nhận thấy vùng đất màu mỡ này còn hoang sơ chưa được khai phá, khí hậu lại mát mẻ rất thích hợp cho việc sản xuất các loại rau, hoa và cây ăn quả. Trong khi đó, nhu cầu về thực phẩm tươi sống cung cấp cho người Pháp, quan lại Nam Triều và người dân địa phương thì ngày càng tăng. Chính vì vậy, quan Quản đạo đã đưa ra sáng kiến về việc lập ấp trồng rau và hoa tươi cung cấp cho nhu cầu tại chỗ. Được sự đồng ý của người Pháp, ông Trần Văn Lý đã đề nghị ông Hoàng Trọng Phu lúc đó là Tổng đốc Hà Đông kiêm Chủ tịch Uỷ ban tương tế xã hội trung ương Bắc Kỳ về việc di dân ngoài đó vào lập ấp tại Đà Lạt. Nhận lời đề nghị trên, Tổng đốc Hoàng Trọng Phu đã lệnh cho ông Lê Văn Định lúc đó đang giữ chức Thương tá canh nông tỉnh Hà Đông xây dựng kế hoạch và chuẩn bị thực hiện việc di dời dân Hà Đông vào khai hoang lập ấp tại Đà Lạt. 

Hồi bấy giờ, Lê Văn Định đã thực hiện khá chu đáo các bước chuẩn bị. Ông đã lập một chương trình cổ động trên báo chí về tiềm năng của vùng đất cao nguyên Đà Lạt và chủ trương di dân Hà Đông vào thành phố này. Nhờ đó mà cụ Ngô Văn Bính đã đọc được thông tin đăng trên báo La Vuolte. Ông Định cũng đã đứng ra vay 500 đồng từ quỹ của Uỷ ban tương tế xã hội trung ương Bắc Kỳ để thực hiện các công việc phục vụ cho đợt di dân này. Số tiền vay được, ông trích ra 300 đồng gửi vào Đà Lạt cho Quản đạo Trần Văn Lý chuẩn bị cơ sở vật chất ban đầu nhằm góp phần ổn định cuộc sống cho dân di cư, phần còn lại để mua vé tàu hỏa và cấp cho những người được tuyển chọn vào có chút vốn ban đầu chi tiêu và mua sắm công cụ sản xuất. Nhờ công tác cổ động tích cực, công việc tuyển chọn đã đạt kết quả tốt. Đầu năm 1938, hàng chục người từ các làng xã trong tỉnh Hà Đông thời đó đã được tập trung về trụ sở của Hội tiểu canh nông công nghệ Hà Đông. Hầu hết trong số họ là nam giới khỏe mạnh do chức sắc các làng ven hồ Tây đề cử. Ông Lê Văn Định đã tuyển lựa được hơn 30 người và giao cho ông Vũ Đình Mấm, Tham tá canh nông tỉnh Hà Đông hướng dẫn thêm về cách trồng rau, hoa. Sau đó, họ được đưa đi tham quan và học tập phương pháp trồng rau, hoa của người Pháp tại làng Ngọc Hà, trong đó có vườn của ông Victor Vouillon và còn đến trại nuôi gà của ông Hoàng Trọng Phu. Họ cũng được bác sĩ Cao Xuân Cẩm khám và tiêm phòng các bệnh truyền nhiễm và cấp giấy chứng nhận sức khỏe. Ngày 31/5/1938, nhóm đầu tiên gồm 35 người là những cư dân vùng ven hồ Tây thuộc Hà Đông cũ đã đã đặt chân lên đất Đà Lạt sau khi vượt một cuộc hành trình hàng ngàn cây số trên chuyến tàu hỏa được miễn cước hành lý và giảm giá vé. Sự có mặt của họ đã đánh dấu cho cái mốc đầu tiên dẫn đến sự hình thành một vùng cư dân mới của thành phố cao nguyên, là một minh chứng sinh động về ý chí của người Hà Nội xưa đi dựng xây quê hương mới, mở mang bờ cõi sơn hà.

  

Trong lần “hành phương Nam” đầu tiên, có 35 cư dân, trong đó gồm: 6 người của làng Quảng Bá, 6 người của làng Tây Tựu, 6 người của làng Ngọc Hà, 5 người của làng Xuân Tảo, 6 người của làng Vạn Phúc và 6 người của làng Nghi Tàm. Dân ấp Hà Đông ở Đà Lạt bây giờ vẫn thường nhắc đến tên tuổi của họ để ghi nhớ công lao của những người tiên phong khởi nghiệp. Đó là cá cụ ông Ngô Văn Hiện, Ngô Văn Hựu, Ngô Văn Tường, Trần Văn Y, Nguyễn Duy Thuấn, Lý Nhu, Nguyễn Xuân Hợp, Nguyễn Hữu Bái, Nguyễn Hữu Hắc, Đỗ Xuân Kể, Trần Văn Nga, Phương Văn Lầu… và các cụ bà như Cả Tục, Nguyễn Thị Sinh, Nguyễn Thị Nhớn… Sau chuyến đầu tiên một thời gian, đầu năm 1939 có thêm 19 người nữa vào và từ năm 1940 - 1942 lại có thêm 47 người nữa. Dân cư  ngày càng đông hơn và cuộc sống trên vùng đất mới đã bắt đầu ổn định, những lưu dân xa xứ có nhu cầu hình thành một đơn vị hành chính riêng. Ban đầu cư dân ở đây đề nghị được lấy tên ông Hoàng Trọng Phu làm tên ấp nhưng quan Tổng đốc đã từ chối lời đề nghị này và gợi ý nên lấy tên Hà Đông đặt cho ấp để con cháu mai sau nhớ về cội nguồn, gốc gác của mình. 

Những tư liệu trên đây về cái thời người hồ Tây “ghánh tên xã, tên làng” theo cuộc di dân về phía phương Nam chỉ là những dòng khô khan mà hậu thế mạn phép ghi lại. Như những gì mà các lão bối trong ấp hồi tưởng, như những gì mà chúng ta có thể hình dung, cuộc đấu tranh mở mang đất mới của những người con Hà thành buổi đầu khởi nghiệp trên vùng đất xa lạ thật vô cùng gian nan, khổ ải. Từ những cư dân quen sống giữa không gian vùng nông thôn ven đô thị đồng bằng Bắc Bộ, sau một chuyến tàu họ đã trở thành người mới của cao nguyên. Đất lạ quê người, bốn phía âm u rừng núi. Họ đối mặt với thiên nhiên hoang dã, với mưa rừng, gió núi, nước độc và thú dữ. Đối mặt với cuộc sống thiếu thốn trăm bề trong cái ngày đầu chưa quen thổ nhưỡng nên mất mùa liên miên. Và não nề hơn là nỗi nhớ cố hương, người thân da diết…

Thế rồi, họ đã vượt qua tất cả mọi gian lao bằng nghị lực và ý chí lập nghiệp của người Hà thành. Cụ Ngô Văn Bính là một trong những người như thế. Năm đó, cụ Bính vào, một mình chống chọi với mọi điều bằng nỗi khao khát thành công. Chỉ một năm sau, cụ viết thư về động viên bố mẹ và cả gia đình cùng vào. Khi đi, bố cụ Bính là cụ Ngô Văn Ất đã mang theo 2.000 ngàn củ hoa layơn. Từ 2.000 củ hoa ấy, gia đình đã có một vườn hoa nở rộ khi gặp đất đai và thời tiết thuận hòa và mang lại một nguồn thu nhập cao hơn cả trong giấc mơ. Với 4 xu một củ giống, chỉ hai tháng sau đã có 2 hào một cây hoa, và cho thu nhập tới 400 đồng bạc Đông Dương, trong khi thời giá 2 đồng một tạ gạo. Tiếp đó, gia đình cụ lại thắng lớn về quả dâu tây với 1,5 đồng một cân mà hàng ngày thu hoạch hàng chục cân. Nạn đói năm 1945, cụ Bính đã gửi về quê nhà Quảng Bá hai tấn gạo để giúp người làng trong cơn hoạn nạn. Chính sự thành công của gia đình cụ đã củng cố thêm niềm tin cho những người dân xa xứ đến cao nguyên này và góp phần giữ chân những người còn dao động chưa yên tâm ở lại. Chính phủ Nam Triều thời đó cũng đã công bằng trong việc trọng thưởng gia đình cụ “Bảo quốc huân chương” và phong cho cụ ông Ngô Văn Ất hàm “cửu phẩm bá hộ”. Có thể nói, gia đình cụ Bính và cùng với những nông dân của ấp Hà Đông đã góp công lớn trong việc khởi nghiệp trồng hoa trên cao nguyên Lâm Viên, để hôm nay Đà Lạt trở thành một vùng hoa chuyên canh nổi tiếng trong và ngoài nước…

Thành phố Đà Lạt đã bước sang tuổi 118, theo hành trình phát triển, ấp Hà Đông cũng đã có lịch sử xấp xỉ 70 năm và đã được vinh danh “làng hoa truyền thống” của thành phố hoa. Qua bao thăng trầm, biến thiên của thời gian, người hồ Tây đi lập nghiệp trên vùng đất cao nguyên vẫn giữ nguyên cốt cách hào hoa, thanh lịch và bản tính cần cù chịu khó, chịu thương. Họ mang theo giọng nói gốc của người Hà Nội xưa và “ghánh” vào Tây Nguyên hoang dã thưở nào những nét văn hóa ngàn năm sông Hồng. Họ hòa mình vào thế núi, dáng sông, vào đời sống của cộng đồng dân cư quê mới. Họ góp sức, góp công, góp máu xương để bảo vệ và kiến thiết cho thành phố cao nguyên ngày một đi lên. Nhưng người hồ Tây đi xa lập nghiệp đã qua nhiều thế hệ vẫn bồi hồi xao xuyến mỗi khi thầm nhắc về một vùng quê cũ cội nguồn, nơi cắt rốn chôn rau…

Ký sự của Uông Thái Biểu

Theo baoxaydung.com.vn

Từ khóa:
Cùng chuyên mục
  • Di tích lịch sử Cầu Gãy

    (Xây dựng) - Cầu Gãy là minh chứng lịch sử hào hùng, cho sức mạnh và tinh thần yêu nước của dân tộc Việt Nam. Cầu Gãy đã đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế khu vực, nối liền Bình Dương, Bình Phước và các tỉnh Tây Nguyên trong nhiều năm sau giải phóng miền Nam. Năm 2012, Cầu Gãy được công nhận là Di tích lịch sử - Văn hóa cấp tỉnh.

  • Lễ hội sen Đồng Tháp sẽ diễn ra vào trung tuần tháng 5

    (Xây dựng) – Sáng 25/4, UBND tỉnh Đồng Tháp đã ban hành Thông cáo báo chí Lễ hội Sen Đồng Tháp lần thứ II năm 2024. Theo Thông cáo, Lễ hội Sen Đồng Tháp lần thứ II năm 2024 với chủ đề “Rạng ngời sắc Sen” sẽ diễn ra tại Công viên Văn Miếu (đường Lý Thường Kiệt, phường 1, thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp), từ ngày 16-19/5/2024.

  • Hội thảo “Di sản Kiến trúc trong dòng chảy phát triển”: Điểm nhấn trọng tâm về học thuật

    (Xây dựng) - Ngày 23/4, Hội thảo khoa học “Di sản Kiến trúc trong dòng chảy phát triển” đã diễn ra tại Trường Đại học Khoa học, Đại học Huế, trở thành điểm nhấn trọng tâm về học thuật trong khuôn khổ Festival Sinh viên kiến trúc toàn quốc lần thứ XIV tại Huế.

  • Quảng Ninh: Kỷ niệm 513 năm ngày cụ Vũ Phi Hổ đỗ tiến sỹ

    (Xây dựng) - Ngày 23/4, xã Lê Lợi, thành phố Hạ Long nòng cốt là Hội đồng dòng họ Vũ Võ tỉnh Quảng Ninh vừa tổ chức Lễ dâng hương kỷ niệm 513 năm ngày cụ Vũ Phi Hổ, người dân của địa phương đỗ tiến sĩ.

  • Hoàn thành giai đoạn 1 tu bổ nơi Tổng Bí thư Trần Phú bị giam giữ và hy sinh

    Bệnh viện Chợ Quán xây dựng xong vào năm 1864, được Tổ chức Kỷ lục Việt Nam, đơn vị trực thuộc Trung ương Hội Kỷ lục gia Việt Nam công nhận là "Bệnh viện lâu đời nhất Việt Nam."

  • Khai hội đền Đô: Tái hiện lịch sử hào hùng của dân tộc

    (Xây dựng) - Sáng 23/4, tại thành phố Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh đã long trọng diễn ra Lễ khai hội đền Đô 2024 và hướng tới kỷ niệm 1014 năm Vua Lý Công Uẩn lên ngôi Hoàng đế.

Xem thêm
...

Tin bài cuối cùng

Không còn dữ liệu để load