Có đôi giếng rắn thần với những chi tiết đượm màu huyền thoại nơi miền rừng Cẩm Thuỷ xa xôi của tổ Thanh Hóa.
Sự tích giếng thần
Không ai trong làng Chiềng, xã Cẩm Quý, huyện Cẩm Thuỷ (Thanh Hoá) biết được hai chiếc giếng thần của làng (được gọi là giếng nam và giếng nữ) có tự bao giờ. Theo các bậc cao niên kể lại, khi họ sinh ra thì giếng đã có từ lâu, quanh năm trong vắt và đầy ắp nước, mùa đông ấm áp còn mùa hè lại mát rượi. Ngoài tác dụng là nơi cung cấp nước sinh hoạt cho dân cả làng, xã, xung quanh hai chiếc giếng thần còn có cả một kho truyện với những tình tiết ly kỳ, đượm mầu Liêu trai, gợi trí tò mò của khách phương xa. Để tìm hiểu về nguồn gốc của giếng, theo giới thiệu của dân làng, chúng tôi tìm đường vào nhà ông Cao Viết Hội - Trưởng họ Cao, một dòng họ lớn định cư lâu đời ở làng Quang Áo, người đang lưu giữ gia phả của dòng họ này. Đang bận bịu với công việc, nhưng thấy có khách xa tới thăm, ông Hội niềm nở pha trà mời khách rồi kể cho chúng tôi nghe câu chuyện về nguồn gốc của hai chiếc giếng thần được truyền lại từ cuốn gia phả của dòng họ.
Cây si cổ thụ bên giếng
Theo đó, vào một đêm mưa gió, trời tối đen như mực, ông tổ họ Cao đi kéo vó bắt cá ở hồ nước thông với con sông Bưởi. Hôm ấy, ông kéo từ sẩm tối tới nửa đêm mà lạ thay, không hề được một con cá nào dù đoạn hồ này vốn nổi tiếng lắm cá. Đang tính bỏ đi chỗ khác, bỗng dưng ông thấy trời nổi sấm chớp đùng đùng, mặt hồ thình lình cuộn sóng dữ dội. Trong ánh chớp, ông nhìn thấy một con vật lớn, hình dáng tựa con giao long đang vặn mình dưới nước. Hoảng hốt, ông vội nhấc vó lên định co chân chạy. Nhưng chiếc vó tự nhiên nặng trĩu, ông lấy hết sức kéo thật nhanh. Vừa nhấc vó lên khỏi mặt nước, ông thấy một quả trứng to bằng quả trứng ngỗng nằm lẫn trong đám rong rêu. Lạ thay, lúc này con giao long biến mất, mặt hồ dần lặng sóng, sấm chớp cũng tan dần, trả lại sự yên tĩnh cho hồ nước.
Thấy sự lạ, ông tổ họ Cao trở về nhà đem quả trứng bỏ vào ấp chung với ổ trứng gà, khi ổ trứng gà nở thành con, quả trứng lạ vẫn nằm im lìm trong ổ khiến ông phải đem sang ổ trứng khác. Thêm một lần chuyển ổ, đúng 55 ngày sau, ông bỗng nghe con gà mái đang ấp cất tiếng gáy vang, nháo nhào nhẩy bổ ra khỏi ổ rơm. Chạy vội ra nơi đặt ổ trứng, ông thấy một chú rắn nhỏ, dài cỡ hơn gang tay, thân hình trắng toát, đầu có mào đỏ như mào gà đang vươn mình phun phì phì. Từ đấy, rắn ở luôn với ông như vật nuôi trong nhà, nó luôn quấn quýt bên ông và chỉ ăn tôm, cá do ông bắt được, không bao giờ đụng đến loại thức ăn khác, sau khi theo ông đi kéo vó về, nó thường cuộn tròn trên xà nhà ngủ. Ngày qua tháng lại, rắn lớn dần, dài tới hai mét, to như bắp tay người lớn, mỗi khi ông kéo vó, nó lao xuống nước, xua tôm cá vào vó của ông. Cho đến một hôm, rắn bỗng bỏ ăn, nằm cuộn tròn không nhúc nhích dưới gầm giường suốt ba ngày. Sang ngày thứ tư, nó lại theo ông ra hồ kéo vó, lặn xuống nước xua tôm cá vào vó của ông. Rồi bất thình lình, nó quay lại, ngóc cổ lên cao như chào từ biệt ông rồi chìm sâu xuống nước. Đêm ấy, ông nằm mơ thấy một chàng trai bạch diện thư sinh, mặc đồ trắng, đội mũ đỏ đến bên giường, nói “Mấy năm nay con được bố nuôi nấng, chăm sóc, những tưởng bố con sẽ sum vầy mãi mãi, nhưng không được vì con chưa hết nợ kiếp này nên phải ra đi. Nay mai có dịp, con sẽ đền ơn bố và dân làng”. Dứt lời, chàng trai quỳ xuống lạy ông ba lạy rồi quay người mất dạng trong tích tắc.
Ít lâu sau, trời làm hạn hán, ruộng đồng, sông suối trong vùng thẩy đều khô cạn, dân làng khổ sở vì thiếu nước dùng. Rồi một đêm, rắn lại về báo mộng cho ông, rằng ngày mai sẽ có nước về cho mọi người. Không tin lắm nhưng sáng hôm sau, ông cũng dậy thật sớm xem sự thể thế nào. Hôm ấy, trời đang nắng bỗng nổi cơn gió mạnh, mây đen kéo tới tối sầm, rồi hai mó nước bất ngờ đùn lên ngay giữa làng, nước tuôn ào ạt, chốc lát đã dâng tràn lai láng, dân làng dùng thoả thuê không hết. Để giữ nguồn nước quý, làng cho xây hai cái giếng cạnh nhau, một chiếc gọi là giếng nam, một chiếc gọi là giếng nữ. Sau đó, làng cho trồng cây si, lập bia đá ghi công đức rắn thần và thường xuyên khói hương, thờ phụng.
Sau khi thuật lại cho chúng tôi sự tích giếng thần, ông Hội thắp hương trên ban thờ, khấn vái kính cẩn rồi lấy xuống một chiếc hộp gỗ sơn son thiếp vàng, bên trong đựng bản sắc phong đã ngả màu vàng ố, có những dòng chữ Nho viết bằng mực Tầu và dấu triện màu đỏ. Theo ông, đây là bản sắc phong vào năm thứ ba, đời Vua Tự Đức, phong cho thần rắn là “Xà vương hạ đẳng thần” vì công lao đem nước về cho dân làng Chiềng.
Những chuyện lạ lùng về giếng thần
Rời nhà ông Hội, chúng tôi nhờ người đưa ra thăm giếng với tâm trạng tò mò, háo hức. Và quả là “danh bất hư truyền”, những điều chúng tôi được nghe xung quanh hai chiếc giếng này là cả một kho truyện kỳ bí, lạ lùng. Nằm giữa những cây si cổ thụ, rễ buông lòng thòng, hai chiếc giếng hình vuông, mỗi cạnh khoảng hơn 2m, được xây, lát bằng những phiến đá phẳng lỳ, vuông vức. Cả hai đều đầy ắp nước trong xanh, cách vài mét là chiếc bia đá cổ rêu phong, nét chữ đã mờ do thời gian, nằm dưới gốc cội si già cành, rễ uốn lượn như đàn rắn, bên dưới chi chít chân hương. Theo lời kể của ông Cao Viết Bảo, người trông giếng thì từ khi ông sinh ra, lớn lên, hai chiếc giếng này chưa bao giờ cạn nước, kể cả những khi hạn hán, tất cả hồ, ao, sông, suối trong vùng đều khô cạn, bà con khắp nơi mang thùng, xô, đánh cả xe bò đến đây lấy nước. Nhưng mực nước chỉ hạ xuống một chút rồi lại dâng đầy. Lạ một điều là nước giếng luôn ấm về mùa đông, mát về mùa hè, gặp hôm trời rét, nước giếng bốc hơi nghi ngút nên dù rét cắt da, cắt thịt, dân làng vẫn ra đây tắm bình thường. Lạ nữa là đàn bà, con gái tắm ở chiếc giếng phía trong thì da dẻ mịn màng, đàn ông, con trai tắm ở giếng ngoài lại khoẻ mạnh, cường tráng. Vì thế dân làng mới đặt tên hai chiếc giếng là giếng nam, giếng nữ. Cách đây khoảng hơn chục năm, làng tiến hành tu bổ lại giếng, do sơ ý, thợ xây làm rơi vữa xuống giếng, lập tức nước giếng sôi lên sùng sục, dân làng phải lập đàn cúng bái, nước giếng mới trở lại bình thường.
Để tạ ơn thần rắn đã giúp đỡ dân làng, hàng năm vào dịp đêm 30 Tết, dân làng Chiềng và cả các vùng lân cận đều tổ chức lễ cúng giếng thần. Lễ vật gồm một đôi gà tơ ( một trống, một mái) màu trắng, một con cá chép, một mâm xôi ngũ sắc và hoa quả, trầu, rượu. Lễ cúng thường diễn ra trước một đống lửa lớn, bắt đầu từ khoảng mười giờ đêm và kết thúc sau lúc giao thừa. Sau đó lộc cúng được chia đều cho tất cả những người tham dự. Cùng với lộc, dân làng còn múc một bình nước giếng mang về nhà “lấy may” đầu xuân năm mới. Qua năm tháng, lễ cúng vẫn được dân làng duy trì và tổ chức đều đặn hàng năm. Người ta còn cho rằng, những đôi nam thanh, nữ tú người dân tộc Mường trong vùng, nếu tìm hiểu nhau tại giếng thần thì sẽ kết thành đôi lứa, con đàn cháu đống, hạnh phúc đến răng long đầu bạc. Được biết, hiện chính quyền địa phương đang có kế hoạch lập tờ trình cùng với hồ sơ, thủ tục, đề nghị các cấp có thẩm quyền xem xét, công nhận giếng thần là di tích lịch sử văn hoá. Qua đó kêu gọi đầu tư xây dựng, biến nơi đây thành điểm tham quan, du lịch. Nếu điều này trở thành hiện thực, đôi giếng thần Cẩm Quý, cùng với với suối cá thần Cẩm Lương, thác Muốn Bá Thước, hang Ma Quan Hoá … sẽ tạo thành một “tua” du lịch hấp dẫn, mời gọi khách tham quan về với miền tây xứ Thanh, nơi vẫn còn đang lưu giữ nhiều huyền thoại, sự tích kỳ bí, vừa hư vừa thực rất đáng để khám phá, tìm hiểu và chiêm ngưỡng.
Đào Nguyên
Theo baoxaydung.com.vn