Thứ năm 31/10/2024 07:35 24h qua English RSS
Hotline: 094 540 6866
Trang chủ / Xã hội /

Kim Ngọc - cha đẻ khoán 10

14:16 | 12/06/2012

(Chân dung nhà cải cách Kim Ngọc qua những miền ký ức)         

KimNgọc - tên thật là Kim Văn Nguộc, sinh 10/10/1917, tại xã Bình Định, huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc. Mất ngày 26/5/1979. Tham gia Đảng Cộng sản Việt Namtừ 1939. Năm 1954 là Phó chính uỷ Quân khu Việt Bắc. Năm 1958 là Bí thư Tỉnh uỷ Vĩnh Phúc. Từ năm 1968 đến 1978 là Bí thư Tỉnh ủy Vĩnh Phú. Kim Ngọc được coi là cha đẻ của khoán hộ, và đổi mới trong nông nghiệp ở Việt Nam. Báo Xây dựng xin giới thiệu cùng bạn đọc loạt bài ký của nhà văn Nguyễn Tham Thiện Kế.       


Kim Ngọc (1917-1979)

Kỳ 1: Hồi ức của một binh nhì

"Những người xung quanh tôi phần đông là nông dân. Nên tôi thấm hiểu thế nào là lòng biết ơn của họ với nhà cải cách Kim Ngọc…"

Năm 1980, rằm tháng Giêng, tôi, anh lính binh nhì viết văn phòng trào của Trung tâm huấn luyện chiến sĩ mới - Sư đoàn 411, nằm khoèo nơi trạm khách dưới chân tháp cảnh giới của người Pháp sót lại trên đồi ga Vĩnh Yên.

Những cơn đói quằn quại ẩn trong mỗi nơ ron thần kinh, mỗi tế bào tuổi 20 khát thèm tinh bột và prô-tê-in, cấu xé rùng rùng từ đầu tới chân. Tiêu chuẩn lính chiến đấu 24 kg lương thực, nhưng bữa ăn đại táo bày ra trên chiếc vung xoong quân dụng chỉ là những cục bo bo rã rời hăng mùi cứt mọt (thứ mà ở Đông Âu người ta cũng không dám cho gia súc ăn) và rúm rau muống luộc ố vàng như gốc rạ.

Gió trung du đồi sỏi khan lạnh lùa qua kẽ nứa thưa đan, tôi  ngắm cánh đồng chưa kịp cấy lúa lõng bõng nước, mấp mô luống cày. Đám nông phu còm cõi, ể oải níu vai chiếc bừa đeo bám đít trâu bò gầy mõ bương đi dật dờ trong cơn mê ngủ.

Sát hàng rào kẽm gai, vạt ruộng rau muống váng phèn ám đỏ như ngấm a-xít, lơ phơ màu hoa trắng tím. Bà già trùm áo tơi lá và đứa cháu trai áo sợi quân dụng, nhưng quần lửng đùi chừa ra đôi chân như ống tre còi. Bà và cháu khua liềm làm cỏ rau muống. Bà và cháu cùng mót những cọng rau muống trụi lá, cứng dai như tay tre gai đồi sỏi. Bà và cháu trịnh trọng bỏ từng cọng rau vào chiếc rổ thưa méo miệng…

Bỗng tôi nhận được lệnh tháp tùng hai sĩ quan: Thiếu tá Nguyễn Ngọc Chiển - Trưởng ban tuyên huấn và trung tá Phạm Quế Dương - Chủ nhiệm chính trị Sư đoàn ra bên ngoài doanh trại. Quân phục gọn gàng, trên tay chiếc túi vải bạt đựng chai rượu chanh Hà Nội, hộp nhang vòng, gói bánh qui Hương Thảo, mà người trợ lý tuyên huấn vừa trao cho, tôi đứng chờ nhấp nhổm trên đám sỏi cuội ong như rỉ sắt.

Cho đến bây giờ, tôi cũng chẳng hiểu tại sao hai sĩ quan trải qua hai cuộc kháng chiến đó, giỏi tiếng Pháp, thích ô-pê-ra, chơi vi-ô-lông, rèn luyện bóng bàn lại chiếu cố đến tôi. Và, tôi cũng tự nhiên yêu quí họ, yêu quí đến tận bây giờ. Quân phục mới nức, hai viên sĩ quan quân hàm quân hiệu sáng chói khoác va-rơi màu cỏ, bước nhanh ra khỏi tầng hầm trại lính cũ, nghiêm trang, trịnh trọng và trầm buồn. Tôi giập gót, giơ tay lên đầu, đáng lẽ nói: Chào các thủ trưởng ạ, thì tôi lại cháu chào hai bác ạ. Thiếu tá Nguyễn Ngọc Chiển cau mày.


Bí thư Kim Ngọc cùng Bác Hồ thăm bà con tỉnh Vĩnh Phúc

- Cậu định làm nông dân đến bao giờ nữa đây. Gần quá tuổi quân rồi.

Trung tá Phạm Quế Dương mải nghĩ gì đó nhưng tâm vẫn dính vào vụ việc. Ông phẩy tay.

- Chậc, nước Việt ta thì có làm vua 13 đời thì cắt gân gót vẫn còn máu nông dân. Có lẽ tại chúng ta sắp đi thắp hương cho anh Kim Ngọc - một đảng viên của những đảng viên - một nông dân của những nông dân nên linh ứng chăng.

Thiếu tá Nguyễn Ngọc Chiển nhìn cấp trên đắn đo.

- Có gọi xe không anh? Tôi sợ anh sẽ lạnh…

- Đi thăm Kim Ngọc mà đi ô tô được sao. Kim Ngọc từng xắn quần lội ruộng lầy mùa đông thăm lúa, thăm ngô quanh năm. Ta cuốc bộ. Sĩ quan bộ đội Việt thì khác gì Chủ nhiệm HTX nông nghiệp.

Tắt qua đại đội vận tải đã là Xí nghiệp nung vôi liền kề ga Vĩnh Yên. Khói than. Bụi vôi. Bụi than. Bụi từ người lính, bụi người dân tứ xứ đứng, ngồi dồn ứ hai bên đường ke thành màn sương sám tê tái lơ lủng nhấn chìm mọi vật vào âm u. Bộ đội quân phục nhàu nhò, súng đạn lấm lem. Nông dân thì vàng ệch, bao tải, quang sọt, đòn sóc, thừng chão quấn ngang lưng. Sắn tươi, sắn khô, su hào, bắp cải, cá mắm, măng khô, chè tươi, cắp nách, bưng bê, giấu giếm đâu đó. Mùi thối rũa. Mùi tanh ngắt.

Quân cảnh, phòng thuế, công an thi thoảng lại thổi còi choe choé đuổi bắt. Tiếng chân chạy thục mạng. Hơi thở hồng hộc. Vấp, ngã. Xin xỏ. Van lạy. Thề thốt. Đầu tàu già cỗi, oằn oại kéo theo những toa hàng han rỉ…

Ba quân nhân bảnh bao băng qua sự hỗn loạn trong vô số ánh mắt ác cảm. Những ánh mắt ném vào lưng chúng tôi câu hỏi: Sao thời buổi này mà vẫn có những kẻ bóng mượt thế kia. Tôi đi cuối mà vẫn thấy da mặt mình sần lên. Vòng qua đầu dãy nhà kho khai nhức, thối gắt mùi cặn bã người phóng uế  Bỗng một cảnh tượng chọc vào mắt. Bà già áo bông đụp, váy đụp, thắt bẹ chuối, nón mê đang co kéo với hai gã trung niên thuế vụ chiếc bao tải  vốn đựng phân u-rê, giờ được cuốn giấu chừng ba bốn cân chè khô. Tiếng bà già khan khê.

- Ôi các ông ơi cho con xin. Đây là chè vườn nhà con tích cóp được. Con có buôn gian bán lận gì đâu. Nhà nông năm nay đói kém, con mang đi đổi sắn khô về cho mấy đứa cháu nội. Bố nó đang trận mạc biên giới chưa biết sống chết ra sao. Ôi các ông cho con xin. Các ông cướp của con thì con xin chết ngay bây giờ. Ôi Đảng, ôi Chính phủ ơi.

Hai gã trung niên béo khoẻ hùa nhau giựt lại bao chè. Bà già nhất quyết bám chặt như kìm bấm khoá.

- Ba bốn cân chè chứ có ít đâu. Đây là hành vi đầu cơ tích trữ. Phải tịch thu… tịch thu… sung công quỹ.

Bà già đu người níu giữ. Bậc. Chiếc túi bục ra. Ngoài chè khô vung vãi trên mặt đất. Gói giấy xi-măng cũng văng ra. Một rúm những hạt bo bo lẫn sỏi dăm vụn than vụn tung tóe theo. Thứ ấy, ai nhìn cũng biết ngay là mới được mót vét ở sân ga này.

Bà già ngồi bệt, ôm mặt lúc lắc chiếc nón mê. Mãi sau như mới hồi tỉnh, bà quì gối bò lổm ngổm, bốc, vét những thứ vừa bị tãi rời.

Hai viên sĩ quan vừa bước tới, bà già lao đến ôm  lấy chân trung tá Phạm Quế Dương.

- Ôi các ông tướng ông tá xin cứu con. Con của con nó cũng đang làm lính cho hai ông. Nhà cháu hết gạo từ đầu tháng Chạp năm ngoái rồi…

Trung tá ngồi thụp xuống đỡ bà cụ. Thiếu tá thì nhũn nhặn với hai gã thuế vụ.

- Thôi, các anh cho tôi xin thay cho bà cụ. Các anh nhìn xem, người thế này thì làm sao có khả năng đầu cơ tích trữ.

Một trong hai gã cằn nhằn.

- Thế thì không được. Vi phạm chính sách kinh tế tập trung của Đảng và Nhà nước…Thủ trưởng ký cho em một chữ thì em sẽ tha ngay cho bà già này.

Thiếu tá thõng tay buồn thiu. Trung tá lần túi ngực bên trong áo khoác, rút ví.

- Phải nộp bao nhiêu tôi xin nộp thay bà cụ.

Viên đội trưởng thuế vụ đôi mắt ngầu đỏ xuất hiện. Ông mỏi mệt và lễ phép.

- Tôi xin các thủ trưởng. Không thể bỏ qua được. Đây là chính sách chung. Trên sân ga này, hàng ngày có hàng trăm hàng nghìn trường hợp như bà cụ này. Chúng tôi biết phải làm sao đây. Tha ai, bắt ai. Xin mời các thủ trưởng tiếp tục công vụ. Tôi sẽ liệu vụ này…

Tôi lại theo hai sĩ quan rời đi trong nín lặng. Hai viên sĩ quan trao đổi, rời rạc, trong tiếng gót giày Liên-Xô đóng cá sắt, siết trên mặt đường nhựa trơ trơ sỏi.

- Đất nước đang khủng hoảng kinh tế. Hậu phương quân đội của chúng ta

đà mất hết năng lượng dự trữ. Vậy mà lòng dân và lòng quân vẫn tuyệt đối tin tưởng vào Đảng. Thật tiếc sự cải cách cách của Bí thư Kim Ngọc lại không được ghi nhận, và áp dụng vào thực tiễn. Nếu không đã có cảnh chúng ta vừa chứng kiến. Chúng ta chiến đầu vì sự ấm no hạnh phúc của nhân dân mình kia mà…

- Mỗi con người, mỗi dân tộc đều có biểu tượng số phận hình sin. Nhưng, nếu dân tộc hay con người cụ thể mà sớm ý thức được thời cuộc, thì biểu tượng hình sin kia sẽ được vẽ với những vòng cung rộng và nông, chứ không hẹp và ngoặt khúc đột ngột…

Trung tá bước hẫng xuống rãnh nước ngang đường, tự lự nói.

- Bằng linh cảm kinh nghiệm lịch sử, tôi tin rằng, chúng ta trước sau rồi sẽ phải áp dụng phương thức Kim Ngọc trong cải cách nông nghiệp. Không có lựa chọn nào khác. Mấy mươi năm chiến trận người nông dân đã teo hết cơ bắp. Trâu thì long móng, bò thì lở mồn… Mong rằng sự cải cách sẽ diễn ra sớm. Mấy năm trước, tôi có qua Kim Anh, nên biết nông dân đã hể hả như thế nào khi được khoán… Một ha đã đạt hơn 5 tấn thóc, nghĩa là gấp 4 lần so với những năm trước.

Thoát ra khỏi trung tâm thị xã gầy gùa, vênh vao, gay gắt. Ngoặt tay trái, trước mặt rạp chiếu bóng 19/5 qua công viên hoang. Lại những vạt sắn còi cặn. Những thửa rau muống úa vàng. Mấy chú bò liêu xiêu gầy. Con đường men theo hồ nước, ven bờ tua tủa cây mai dương. Lối xóm khô xác phân chó bên rào cỏ, bỗng hẫng xuống lòng ao cũ, lầy thụt. Ai đó đã đổ phế thải xây dựng để có chỗ đặt chân tạm bợ, để có thể bước dấn sang bên gò cao trước mặt.

Ngôi nhà lè tè nhưng vẫn có cảm giác chênh vênh bởi sự đơn độc của nó. Tường trát thiếu vôi, thiếu xi nổi cát. Ngói lợp khập khiễng, lệch xô. Đống sạn cát, gạch vỡ, ngói thủng được chủ nhân tận dụng để chờ xây dựng tiếp chỗ nào đó, xếp gọn gàng phía sau nhà. Xung quanh là nước đầm Vạc đục ngầu và nghĩa địa nhấp nhô. Dăm ngôi mộ xỉn màu vôi cũ. Thùng đấu. Lò gạch hoang. Mảnh sành, mảnh gạch ngói vụn và cả những chiếc tiểu cũ rỗng không. Gió từ khoảng trống trước mặt ào ạt, ép quần áo dán chặt vao nửa người. Mùi hương trầm lặng lẽ, cam chịu rớt cuối tầm gió.

Con chó gié từ đâu xộc ra oẳng lên rủa ngân nga, sầu muộn.

Tôi nhìn quanh. Chẳng lẽ đây là ngôi nhà nhân vật quan trọng đến nỗi các thủ trưởng quân sự của tôi khi nhắc đến cũng khẽ khàng kính trọng mà chỉ như chiếc lò ấp trứng vịt HTX nông nghiệp. Hẳn cái ông có tên Kim Ngọc ấy phải vô cùng đặc biệt. Tôi đã tò mò lại càng sốt ruột hơn.

Hai vị sĩ quan chỉnh đốn quân phục, trước khi bước qua cánh cổng khép hờ. Ven bờ rào, căng dây thép gai rỉ, ngang thân cọc tre, dăm cây xoan, dăm cây mít mới độ bén đất ấm rễ. Hàng chè để hái lá tươi vươn cao, nhưng còn mảnh mướt lả ngọn. Vườn táo lai Thiện Phiến bắt đầu trổ búp mới.

Người đàn bà trắng xanh, tầm ngoại ngũ tuần, khăn len kẻ trùm đầu, kính râm, áo len dài tay màu mận, quần lụa đen óng, đôi dép nhựa xanh ngọc. Hai cánh tay đặt trước bụng, người đàn bà từ tốn cất giọng trầm, và ấm. Nhưng sao tôi vẫn cảm được sự xa cách, hờ hững thấp thoáng nỗi buồn không thể cởi gỡ. Bà Lê Thị Liên, người bạn đời của Bí thư Kim Ngọc.

- Các ông đến thăm nhà ạ. Xin mời các ông vào.

Tiếng dép lạch xạch lướt đi chầm chậm.

Bà đi ra từ cửa ngách, nhưng lại vòng ra trước rẻo sân lát gạch, xanh rêu, có cửa gian khách. Hai cánh cửa sơn xanh, khẽ một cái đẩy tay, hai cánh cửa sơn xanh đã lật úp vào hai bên tường. Mùi hương trầm ào ra. Một bàn thờ đơn sơ. Mâm ngũ quả. Bát hương, dày đặc chân nhang. Những que hương cháy hết uốn cong cong ôm lấy bát hương y như những bông lúa cháy đen ôm gốc rạ sau vụ hoả hoạn.

Bức chân dung Kim Ngọc trịnh trọng trong bộ vest. Tóc rẽ ngôi lệch cổ điển. Khuôn mặt chữ điền, mắt sáng, hồn hậu. Đâu đó ẩn trong khoé miệng nụ cười hơi diễu cợt nhưng viên mãn. Kim Ngọc đang chào một ai đó. Kim Ngọc đang khuyến khích một ai đó. Kim Ngọc đang chờ đợi một ai đó. Rõ ràng người trong ảnh đang rất tự tin và chẳng hề lo nghĩ bất cứ điều gì. Có vẻ như ông đã chụp ảnh trước khi đi dự hội nghị hay là chuẩn bị bước lên máy bay. Bay cao.

Tôi có cảm giác nghi ngờ về những thông tin ông xuất thân từ nông dân, am hiểu nông dân như là hiểu những vết sước trên mỗi ngón tay mình. Trông ông cứ như là cán bộ đối ngoại chuyên nghiệp.

Cởi áo khoác, hai sĩ quan nhìn quanh tìm chỗ treo áo. Tôi nhanh nhảu định đỡ áo, thì người đàn bà đã vội đón trước tôi, móc lên chiếc móc áo gắn trên tường ngoài hiên. Tôi nghĩ thầm, đó là chiếc móc áo những ngày trước bà Lê Thị Liên vẫn thường treo móc áo cho chồng. Trung tá nói.

- Thưa chị Kim Ngọc. Tôi quen anh nhà. Từ hồi anh làm Cục trưởng dân quân tự vệ. Còn anh Chiển vốn là chiến sĩ cũ của anh ấy. Năm ngoái anh mất, tôi ở xa. Hôm nay nhân ngày rằm, và cũng là dịp tôi được điều về nhận nhiệm vụ ở gần đây, hai chúng tôi xin chị, cho phép chúng tôi được thắp cho anh Kim Ngọc nén hương. Những mong linh hồn anh phù hộ độ trì cho đất nước. Phù hộ độ trì cho người nông dân cơm no ấm áo. Mong anh siêu thoát.

Đặt đồ cúng lên mặt bàn thờ đơn sơ. Hai viên sĩ quan dàn ngang, rập gót giơ tay chào kiểu quân sự. Tôi đứng sau nên lúng túng giây lát mới có thể lóng ngóng làm theo. Bà Lê Thị Liên bất ngờ ngẹn ngào, chắp tay đáp lễ.

Tôi lặng quan sát. Nhiều ảnh đen trắng trong khung kính. Mấy tấm bằng, khen, giấy khen, huân, huy chương. Gắn dọc hai bên bức tường lồi lõm, của gian khách chật hẹp. Trong nhà chỉ có bộ bàn ghế kiểu Minh triện, đơn giản, trang nhã làm bằng gỗ gụ là trau chuốt. Nước vối nóng hổi rót liền trong ấm giỏ. Đĩa kẹo chanh Hải Châu đã lọt gió, thuốc lá Tam Đảo trịnh trọng mời khách.

Bộ ghế có bốn chiếc. Tôi không dám ngồi  ngang với chủ nhà. Vả lại, trước mặt tôi bên kia bàn đã là hai vị thủ trưởng khả kính. Lùi sát cửa, tôi ngồi trên chiếc ghế đẩu gỗ tạp cập kênh. Bốn chân ghế không bằng mà nền gạch lát cũng là thứ gạch nung thiếu than lửa nên cong vênh thất thường.

Bà Liên mấy lần giục tôi chuyển chỗ ngồi cho tiện ăn kẹo uống nước. Biết không thể lay chuyển, bà liền nhón ba bốn chiếc kẹo thân tình đặt vào lòng tay tôi, chẹp miệng.

- Gày xanh như thế này thì đi giữ chốt làm sao. Ăn đi con… Tuổi này thì bữa cứ phải bảy bát cơm trắng, niêu cá kho, nửa rổ xề rau muống thì khoẻ như ông voi hết…

Hai thủ trưởng của tôi lảng cái nhìn đi đâu đó.

Câu chuyện rời rạc, khó ăn nhập. Toàn chuyện gạo, lúa, bo bo, thời tiết, sức khoẻ họ hàng đôi bên.  Họ cứ muốn nói to một điều ấm ức nào đấy mà không tiện. Không thể kết thúc ngay câu chuyện. Nhưng để kéo dài câu chuyện thì lại không biết bám víu vào đâu. Trong ánh mắt ba người từng trải qua hai cuộc chiến gần suốt cuộc đời, tôi thấy bao nhiêu là sự ngậm ngùi, cam chịu mà sẻ chia thông cảm. Họ vẫn còn giữ được niềm tin vững chắc vào những chân lý thuộc về lẽ công bằng. Tin vào sự thiêng gọi là tình đồng chí.

Người đàn bà nhìn lên di ảnh chồng, tĩnh lặng.

- Ông nhà cháu đã bảo với tôi rằng, ông như cây lúa trổ bông cho hạt rồi. Chỉ còn rạ với rơm. Rạ thì cày ải úp xuống cho đất ruộng thêm tơi nhuần. Rơm thì phơi khô dự trự cho trâu bò tăng sức cày kéo mùa vụ.

Thiếu tá Nguyễn Ngọc Chiển ái ngại.

- Vĩnh Yên còn mênh mông ruộng đất. Sao anh chị không chọn điểm nào bằng phẳng, gần đường, gần chợ sinh hoạt cho tiện sinh hoạt. Đây tuy cao, nhưng là chỗ lò chum vại cũ, xung quanh hãy còn mồ mả, lối vào lầy thụt… Già cả rồi mà anh chị lại chọn chỗ  chông gai  để ở…

Bà Lê Thị Liên cười hồn hậu.

- Ông Kim Ngọc bảo ruộng đất rồi sẽ quí lắm. Không phải vô cớ ông cha nói tấc đất tấc vàng. Nếu thích lấy chỗ bằng phẳng đông vui thì phải xén vào ruộng đất canh tác. Ông ấy thích có vườn rộng. Mơ sẽ có một vườn táo sum suê. Muốn tự mình thực hiện khoán quản cho mình ngay trên mảnh đất mình khai hoang vỡ rậm…

Dường như hồn Kim Ngọc đã trở về. Nụ cười bỗng rạng trên gương mặt héo khô của cô sơn nữ xứ Tuyên thuở nào. Hào hứng bà bước ra hiên chỉ tay ra mấy phía vườn.

- Trước khi về hưu, ông Kim Ngọc đã nhờ mấy chú bên Xí nghiệp cơ khí  Vĩnh Yên rèn nào cuốc bàn, cuốc chim, nào xẻng. Mấy ông già Sán Dìu bân thân thuở tá điền trong Thanh Lanh mang cho mấy khúc tre đực làm cán. Tôi và ông ấy, tự khoán mỗi ngày cuốc 4 mét vuông vườn, nhặt sạch sỏi đá, mảnh sành, mảnh vại. Đứa cháu gái con thằng cả cũng theo ông bà ra vườn. Cháu nhỏ nhưng cũng biết  gom nhặt mảnh sành, mảnh vại giúp ông giúp bà. Chẳng may, tay cháu bị cứa đứt, máu chảy toá ngón tay. Cháu cứ giơ lên trời kêu khóc sợ hãi. Ông Kim Ngọc nhà tôi lấy vạt áo lau sơ qua bùn đất trên ngón tay cháu rồi đưa vào miệng ngậm một lúc rồi mới băng bó. Lúc sau cháu gái hỏi tại sao ông lại ngậm ngón tay đầy những máu. Ông cháu bảo rằng; Cháu là máu thịt của ông bà. Máu của cháu cũng là máu của ông bà. Taychảy máu ngậm vào miệng mãi cũng hết chảy cháu ạ…

Gió thổi bùng mái tóc pha sương thoát khỏi vành khăn len, xoà kín mặt người đàn bà. Hình như trong khoé mắt bà có nước mắt, nhưng trên môi bà sao tôi lại thấy nụ cười rạng niềm tin.

Câu chuyện tôi nghe bập bõm ngày xưa về khoán trong nông nghiệp và số phận người đảng viên Kim Ngọc, khai sinh ra nó là đề tài lúc rầm rì  lúc công khai có ở mỗi tổ đội sản xuất, ở mỗi quán nước chè, quán cà-phê trong suốt mấy chục năm, suốt từ Móng Cái đến Mũi Cà Mau.

Và, cho đến thời điểm này, khi người nông dân toàn quốc, đã thừa lúa gạo xuất khẩu, họ dù không biết chữ, hay nghễng ngãng điếc lác còn biết Kim Ngọc là ai, thì dường như vẫn chưa có hồi kết câu chuyện về ông. Người ta đang hồi cố về Kim Ngọc với bao nhiêu niềm vui và nỗi buồn.

Người ruột thịt xung quanh tôi phần đông là nông dân. Nên ít nhiều tôi thấm hiểu thế nào là sự biết ơn của họ với nhà cải cách Kim Ngọc. Và, chính tự thân tôi cũng muốn một lần chính thức cảm ơn ông, với tư cách là một con người với một con người. Ông đã làm vợi bớt đi bao nhiêu là gánh nặng trách nhiệm lo toan bất lực của tôi với người thân ở làng ở xóm, vì thóc nghĩa vụ vì chỉ tiêu lợn hơi. Và, những người thân cuả tôi ở xóm ở làng cũng không còn thắc thỏm thương các con cháu ở thành phố ăn gạo hẩm, ăn sắn khô mốc.

Ở mỗi bến tàu bến xe không còn cảnh bà mẹ nông dân còng lưng van xin quản lý thị trường khi mang theo một vài cân chè khô. Những chuyện thật mà ngỡ như không có. Không ngờ phải mất khoảng thời gian tính cho một thế hệ trưởng thành, tôi mới có lý do để trở lại ngôi nhà mà nhà cải cách nông nghiệp Kim Ngọc đã sống mấy tháng cuối đời.

Tham vọng lý giải hiện tượng Kim Ngọc với vô số câu hỏi và nhiệm vụ tự đặt ra, tôi những mong điều đó khiến mình yên lòng. Và, phần nào  giúp bạn đọc phác hoạ chân dung một ngưỡi Cộng sản, dám xác quyết hy sinh sinh mạng chính trị đang thăng tiến vì bát cơm của mỗi người nông dân. Một người dám nói ngược chân lý chính thống nuôi dưỡng ý chí thích công to, việc lớn và lòng tự hào của cả một quốc gia đang nồn nàn, phăng phăng cuộn chảy, phấn đấu cho thế giới đại đồng.

Nguyễn Tham Thiện Kế

Theo baoxaydung.com.vn

Từ khóa:
Cùng chuyên mục
Xem thêm
...

Tin bài cuối cùng

Không còn dữ liệu để load