(Xây dựng) - Ngày 10/11, Bộ Giao thông vận tải công bố Quy hoạch kết cấu hạ tầng đường thủy nội địa thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 (được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 1829) theo hình thức trực tuyến, với sự tham gia của đại diện các bộ, ngành và các địa phương trên toàn quốc.
Theo Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải Nguyễn Văn Thể, đến nay, các quy hoạch đường bộ, hàng hải, đường sắt, đường thủy đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt (và sắp tới là lĩnh vực hàng không), là định hướng quan trọng để phát triển toàn diện giao thông vận tải. Quá trình xây dựng các quy hoạch là cơ hội để đánh giá, nhìn nhận các tiềm năng phát triển của các lĩnh vực, trong đó đặc biệt là lĩnh vực đường thủy nội địa.
Tại Quyết định số 1829 của Thủ tướng phê duyệt Quy hoạch kết cấu hạ tầng đường thủy nội địa thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050. Mục tiêu quy hoạch đến năm 2030: khối lượng vận chuyển hàng hóa đạt khoảng 715 triệu tấn; đạt khoảng 397 triệu lượt khách. Về kết cấu hạ tầng, cải tạo nâng cấp các tuyến chính có mật độ vận tải cao, đáp ứng chạy tàu 24/24 giờ; phấn đấu tổng chiều dài các tuyến khai thác đồng bộ theo cấp kỹ thuật đạt khoảng 5.000km.
Phát triển hệ thống cảng, bến thủy đáp ứng nhu cầu vận tải hàng hóa và hành khách trên các hành lang vận tải thủy; từng bước hiện đại hóa các cảng chính, cảng chuyên dùng. Kênh hóa các đoạn sông qua đô thị lớn và chuyển đổi công năng cảng thủy xếp dỡ hàng hóa phù hợp với quá trình đô thị hóa. Hiện đại hóa hạ tầng công nghệ thông tin phục vụ quản lý, khai thác kết cấu hạ tầng đường thủy nội địa. Quy hoạch 9 hành lang vận tải thủy gồm: 1 hành lang ven biển từ Quảng Ninh đến Kiên Giang (khu vực miền Trung thuộc hành lang ven biển), 4 hành lang khu vực miền Bắc (Quảng Ninh - Hải Phòng - Hà Nội, Quảng Ninh - Hải Phòng - Ninh Bình, Hà Nội - Nam Định - Ninh Bình và Hà Nội - Việt Trì - Lào Cai) và 4 hành lang khu vực miền Nam (Thành phố Hồ Chí Minh - Cần Thơ - Cà Mau, Thành phố Hồ Chí Minh - An Giang - Kiên Giang, Bà Rịa - Vũng Tàu - Tây Ninh - Thành phố Hồ Chí Minh và hành lang vận tải thủy kết nối với Campuchia qua sông Tiền, sông Hậu). Trên hành lang gồm các tuyến vận tải chính và một số tuyến vận tải nhánh.
Bên cạnh đó, quy hoạch có 55 tuyến vận tải chính trên 140 sông, kênh với tổng chiều dài khoảng 7.300km (trong đó khai thác đồng bộ theo cấp kỹ thuật đạt khoảng 5.000km). Trong đó, miền Bắc có 18 tuyến chính trên 49 sông, kênh với tổng chiều dài khoảng 3.028km; miền Trung có 11 tuyến chính trên 28 sông, kênh với tổng chiều dài khoảng 1.229km và miền Nam có 26 tuyến chính trên 63 sông, kênh với tổng chiều dài khoảng 3.043km. Trên các tuyến vận tải, đầu tư đồng bộ các kết cấu hạ tầng đường thủy nội địa.
Quy hoạch cũng xác định tập trung phát triển 54 cụm cảng thủy hàng hóa, với tổng công suất khoảng 361 triệu tấn, được phân bố cân đối ở khu vực Bắc - Trung - Nam. Về cảng hành khách, quy hoạch 39 cụm cảng hành khách chính với tổng công suất khoảng 53,4 triệu lượt khách. Trong đó, khu vực miền Bắc có 10 cụm cảng, tổng công suất khoảng 10,9 triệu lượt khách; miền Trung 14 cụm cảng, tổng công suất khoảng 2,5 triệu lượt khách và miền Nam có 15 cụm cảng, tổng công suất khoảng 40 triệu lượt khách.
Trên cơ sở quy hoạch đường thủy nội địa đã được phê duyệt, Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải chỉ đạo các Cục Đường thủy nội địa Việt Nam và các đơn vị chức năng học tập kinh nghiệm từ phát đường đường thủy phía Nam để áp dụng cho khu vực phía Bắc, nhằm khai thác tốt, tổ chức kết nối tốt hơn giữa đường thủy, đường bộ, cảng biển, đặc biệt đối với tuyến hành lang vận tải ven biển Bắc - Nam và 4 hành lang vận tải phía Bắc.
Lê Mỹ
Theo