Thứ sáu 27/12/2024 01:20 24h qua English RSS
Hotline: 094 540 6866
Trang chủ / Khoa học - Công nghệ /

Vai trò của Hệ thống tiêu chuẩn quy chuẩn đối với hoạt động xây dựng hướng tới các tiêu chí xanh, tiết kiệm tài nguyên, năng lượng, bảo vệ môi trường

16:32 | 17/11/2020

(Xây dựng) - Hệ thống tiêu chuẩn quy chuẩn là hành lang kỹ thuật, đóng vai trò quan trọng định hình sự tồn tại, phát triển của công trình xây dựng. Đồng thời, cũng là những công cụ pháp lý rất quan trọng được sử dụng phổ biến trong hoạt động xây dựng nhằm hướng tới các tiêu chí xanh, tiết kiệm tài nguyên, năng lượng, bảo vệ môi trường, phát triển bền vững, bảo vệ an ninh quốc gia.

vai tro cua he thong tieu chuan quy chuan doi voi hoat dong xay dung huong toi cac tieu chi xanh tiet kiem tai nguyen nang luong bao ve moi truong
Hệ thống tiêu chuẩn quy chuẩn đóng vai trò quan trọng đối với hoạt động xây dựng hướng tới các tiêu chí xanh, tiết kiệm tài nguyên, năng lượng, bảo vệ môi trường, phát triển bền vững, bảo vệ an ninh quốc gia

Nhiều tồn tại, vướng mắc

Năm 1996, cả nước có 15 quy chuẩn Việt Nam và 3 tập quy chuẩn kỹ thuật quốc gia do Bộ Xây dựng ban hành, 28 quy chuẩn quốc gia do các bộ quản lý công trình xây dựng chuyên ngành ban hành. Hệ thống đã điều tiết hiệu quả hoạt động đầu tư xây dựng từ quy hoạch, khảo sát thiết kế, thi công đến khai thác, nâng cao vai trò quản lý Nhà nước trong hoạt động xây dựng, bảo đảm an toàn và sức khỏe con người, tài sản của Nhà nước, của nhân dân, bảo vệ môi trường tiết kiệm tài nguyên, năng lượng, sử dụng hiệu quả vốn đầu tư.

Hệ thống Bộ Quy chuẩn Việt Nam có khoảng 44 bộ, trong đó Bộ Xây dựng ban hành 16 bộ, các bộ quản lý công trình xây dựng chuyên ngành ban hành 28 bộ. Việt Nam hiện có khoảng 1.200 tiêu chuẩn quốc gia, chia thành 11 nhánh, bao quát đầy đủ và toàn diện các lĩnh vực, công nghệ và quá trình xây dựng công trình.

Căn cứ thực trạng toàn bộ tiêu chuẩn cơ sở đã được áp dụng trong các hoạt động xây dựng. Hệ thống quy chuẩn Việt Nam mặc dù nhiều nhưng chưa phủ hết các đối tượng và lĩnh vực xây dựng, đa số các quy chuẩn Việt Nam đều hướng đến một đối tượng, loại công trình cụ thể, nhiều hoạt động xây dựng và loại công trình cần được ban hành quy chuẩn Việt Nam (cầu, đường, đập, hồ chứa, nhà ở và công trình công cộng…). Chất lượng một số quy chuẩn Việt Nam chưa phù hợp với thực tiễn do được chuyển dịch từ tài liệu nước ngoài, một số quy chuẩn Việt Nam chưa theo kịp sự phát triển nhanh chóng của các công nghệ xây dựng nước ngoài đang áp dụng tại Việt Nam.

Bên cạnh đó, việc công khai, hệ thống, sắp xếp các quy chuẩn Việt Nam còn thiếu và yếu, không rõ lộ trình xây dựng mới và soát xét các quy chuẩn Việt Nam cần thiết, một số quy chuẩn Việt Nam còn trùng lặp về phạm vi và đối tượng, các địa phương gần như không ban hành quy chuẩn, chưa có sự kết nối rõ ràng giữa quy chuẩn và tiêu chuẩn. Dẫn đến việc hầu như không thể tìm được bản quy hoạch hệ thống quy chuẩn Việt Nam chuyên ngành trên mạng, một số quy chuẩn chỉ phổ biến trong một ngành mà không được quan tâm ở ngành khác, các nhà đầu tư, nhà thầu muốn tuân thủ quy chuẩn Việt Nam nhưng không biết tìm ở đâu, có những quy chuẩn nhắm vào những đối tượng quá cụ thể.

Đối với hệ thống tiêu chuẩn Việt Nam, vì đa số được dịch chuyển từ tài liệu nước ngoài nên có những tiêu chuẩn Việt Nam không phù hợp với thực tiễn, tính đồng bộ chưa cao do trộn lẫn nhiều hệ thống tiêu chuẩn của nhiều nước, đối tượng và phạm vi điều chỉnh hạn chế, các tiêu chuẩn cũ còn khá nhiều thường gặp vấn đề về công nghệ lạc hậu, thiếu kết nối với các phần mềm hiện đại hỗ trợ thiết kế, thi công.

Công tác quy hoạch tiêu chuẩn Việt Nam cũng chưa được quan tâm, do đó chưa đảm bảo sự kết nối giữa các Bộ, ngành, chưa có phân vai rõ nét giữa các Bộ, ngành trong công tác biên soạn tiêu chuẩn Việt Nam. Việc ban hành các tiêu chuẩn cơ sở hoàn toàn thuộc quyền của các tổ chức, doanh nghiệp dẫn đến sự tự phát, thiếu sự quản lý của nhà nước, nội dung tiêu chuẩn cơ sở không đáp ứng được yêu cầu của quy chuẩn Việt Nam…

Vai trò quan trọng của hệ thống tiêu chuẩn quy chuẩn trong hoạt động xây dựng

Mặc dù, vẫn còn nhiều tồn tại, bất cập nhưng hệ thống tiêu chuẩn quy chuẩn vẫn đóng vai trò quan trọng đối với hoạt động xây dựng nhằm hướng tới các tiêu chí xanh, tiết kiệm tài nguyên năng lượng, bảo vệ môi trường, phát triển bền vững, bảo vệ an ninh quốc gia.

Cụ thể, theo nghiên cứu và so sánh 07 hệ thống đánh giá công trình xanh trình Bộ Xây dựng về dự án Năng lượng sạch do USAID tài trợ, công trình xanh được đánh giá theo các tiêu chí: Tiết kiệm năng lượng qua nâng cao hiệu quả sử dụng năng lượng và khuyến khích sử dụng năng lượng tái tạo; Tiết kiệm nước nhờ sử dụng thiết bị tiết kiệm nước hoặc tái sử dụng nước; Tiết kiệm sử dụng vật liệu hoặc sử dụng vật liệu bền vững thay thế; Bảo vệ sinh thái cho môi trường xung quanh; Giảm thiểu phát thải và ô nhiễm tới môi trường; Cải thiện tiện nghi và môi trường bên trong công trình nhằm đảm bảo sức khỏe cho người sử dụng.

Để có thể đánh giá các công trình xây dựng theo mỗi tiêu chí trên, các hệ thống đánh giá công trình xanh phải dựa vào các yêu cầu và hướng dẫn kỹ thuật được quy định trong chính các quy chuẩn, tiêu chuẩn quốc gia hoặc các hệ thống tiêu chí uy tín được áp dụng rộng rãi. Đơn cử như hệ thống Green Star của Úc thường trích dẫn các tiêu chuẩn quốc gia (ký hiệu: AS) hoặc luật xây dựng Úc (ký hiệu: BCA). Hệ thống đánh giá công trình xanh phổ biến nhất thế giới hiện tại, LEED của Hội đồng Công trình Xanh Mỹ cũng thường trích dẫn các yêu cầu và hướng dẫn từ các tiêu chuẩn ASHRAE do Hiệp hội kỹ sư nhiệt lạnh và điều hòa không khí nước này đưa ra hay các tiêu chuẩn tiết kiệm điện quy định cho nhãn năng lượng ENERGY STAR. Việc dựa vào các hệ thống tiêu chuẩn quốc gia sẵn có giúp các kỹ sư và kiến trúc sư dễ dàng hiểu, từ đó lựa chọn giải pháp kỹ thuật và chuẩn bị hồ sơ trình duyệt phù hợp.

Tại Việt Nam, việc Bộ Xây dựng ban hành Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia QCVN 09:2013/BXD “Các công trình xây dựng sử dụng năng lượng hiệu quả”, có hiệu lực từ ngày 15/11/2013, quy định những yêu cầu kỹ thuật bắt buộc đối với hiệu quả năng lượng của các hệ thống vỏ công trình, thông gió, điều hòa, nước nóng, chiếu sáng, thang máy… đã tạo tiền đề quan trọng cho việc đánh giá công trình tiết kiệm năng lượng. Ngoài ra, Bộ Xây dựng đã hợp tác với Tổ chức Tài chính Quốc tế (IFC) thuộc Nhóm Ngân hàng Thế giới để đưa ra sách “Hướng dẫn Áp dụng Quy chuẩn Kỹ thuật Quốc gia QCVN 09:2013/BXD” và các bảng tính nhằm giúp các kỹ sư và kiến trúc sư dễ dàng thiết kế công trình tuân thủ các yêu cầu quy chuẩn.

Thêm vào đó, trong khuôn khổ Chương trình Mục tiêu Quốc gia về Sử dụng Năng lượng Tiết kiệm và Hiệu quả, Bộ Công Thương đã cùng với Bộ Khoa học và Công nghệ đưa ra các tiêu chuẩn kỹ thuật về hiệu suất năng lượng cho các thiết bị gia dụng và triển khai dán nhãn năng lượng cho các sản phẩm như bóng đèn, quạt, TV, tủ lạnh, máy giặt, nồi cơm điện, điều hòa không khí… với gần 7.300 chủng loại thiết bị điện đang lưu hành tại Việt Nam.

Trong khi Việt Nam đã có quy chuẩn về công trình sử dụng năng lượng hiệu quả và nhãn năng lượng thì vấn đề tiết kiệm nước và sử dụng thiết bị tiết kiệm nước lại không nhận được nhiều quan tâm khi không có tiêu chuẩn hay quy định nào liên quan tới giảm thiểu sử dụng nước trong các công trình xây dựng. Hiện tại tất cả các bộ công cụ đánh giá công trình xanh được áp dụng tại Việt Nam đều sử dụng các tiêu chuẩn nước ngoài hoặc số liệu trung bình quốc tế để định nghĩa thế nào là thiết bị hay công trình sử dụng tài nguyên nước hiệu quả. Ngoài ra, đối với các công trình xanh có nhu cầu xử lý nước thải nhằm tái sử dụng tại chỗ cũng khó tìm được tiêu chuẩn quy định chất lượng nước phù hợp. Nguyên nhân là do hiện tại Việt Nam chỉ có quy chuẩn quy định chất lượng nước thải theo từng môi trường nhận hoặc chất lượng nước cấp cho từng mục đích sử dụng mà không có quy định đối với chất lượng nước thải được xử lý và tái sử dụng tại chỗ.

Về vật liệu bền vững, tháng 11/2012, Bộ Xây dựng đã ban hành Thông tư 09/2012/TT-BXD quy định sử dụng vật liệu không nung bắt buộc trong công trình xây dựng vốn nhà nước và mọi công trình xây dựng từ 09 tầng trở lên bất kể nguồn vốn. Trước đó hàng loạt tiêu chuẩn quy định yêu cầu kỹ thuật, phương pháp thử… với các loại vật liệu không nung khác nhau như: TCVN 7959: 2011, TCVN 9028: 2011, TCVN 9029: 2011, TCVN 9030: 2011… đã được đưa ra. Nhờ vậy loại vật liệu với nhiều ưu điểm về tính thân thiện môi trường này đang dần được phổ cập trong các công trình xanh tại Việt Nam. Tuy nhiên ngoài vật liệu không nung, còn nhiều loại vật liệu với những tính năng thân thiện môi trường khác chưa được phổ biến và có quy định rõ ràng. Đơn cử như với vật liệu có thành phần là rác thải hoặc vật liệu tái chế từ các hoạt động công nghiệp khác. Đối với loại vật liệu này, hiện tại ở Việt Nam chưa có quy định rõ ràng về tỷ lệ thành phần cũng như phương pháp tính toán và kiểm tra. Chính vì vậy, các hãng phân phối loại sản phẩm xanh này cho các công trình xanh thường phải thực hiện kiểm tra và lấy chứng nhận tại Singapore để chứng minh tính thân thiện môi trường.

Ngoài ra, trong khi gần như tất cả các hệ thống đánh giá công trình xanh khuyến khích sử dụng vật liệu ít phát sinh các chất hữu cơ dễ bay hơi độc hại (VOC) như chất gây ung thư formaldehyde, Việt Nam hiện tại vẫn chưa có tiêu chuẩn quy định hàm lượng cho phép của các chất này trong vật liệu xây dựng. Như vậy, các nhà sản xuất các loại vật liệu thường chứa nhiều chất hữu cơ dễ bay hơi độc hại như sơn, gỗ công nghiệp, keo công nghiệp… chỉ có thể dựa vào các quy định và quy trình kiểm định tại nước ngoài để chứng minh sản phẩm của mình tốt cho sức khỏe người sử dụng.

Về vấn đề đánh giá các loại chất thải và ô nhiễm phát sinh từ công trình xây dựng, các hệ thống chứng chỉ công trình xanh có thể dựa vào các quy chuẩn về nước thải và rác thải hiện hành. Tuy nhiên với nhiều loại ô nhiễm ít được đề cập như ô nhiễm ánh sáng ảnh hưởng thì công trình vẫn phải dựa vào quy định của các nước phát triển để đánh giá các công trình xanh tại Việt Nam.

Đối với tiêu chí về sức khỏe và tiện nghi trong công trình xanh, mặc dù tiêu chuẩn thiết kế cho hệ thống thông gió và điều hòa không khí TCVN 5687:2010 đã thay thế tiêu chuẩn cũ từ năm 1992 với những yêu cầu và hướng dẫn trích dẫn từ tiêu chuẩn ASHRAE, các tiêu chuẩn quy định tiện nghi nhiệt đối với môi trường vi khí hậu trong công trình vẫn chưa được bổ sung.

Trong khi đó tiêu chuẩn TCXDVN 306:2004 quy định các thông số vi khí hậu trong phòng chỉ đơn giản giới hạn tiện nghi nhiệt trong một quãng nhiệt độ nhất định với một mức độ ẩm và tốc độ gió chính xác mà công trình khó có thể tuân thủ trong toàn bộ thời gian vận hành. Thêm vào đó tiêu chuẩn không bao gồm hướng dẫn thiết kế giúp công trình có thể tuân thủ quy định. Khác với tiện nghi nhiệt, tiện nghi chiếu sáng và tiện nghi âm thanh trong công trình đều đã có quy định trong nhiều tiêu chuẩn liên quan, mặc dù chưa phản ánh đầy đủ cho mọi loại công trình và mọi hình thái ô nhiễm. Tuy nhiên, trong trường hợp của tiện nghi âm thanh trong công trình xây dựng, mặc dù đã có nhiều tiêu chuẩn TCXDVN 175:2005 hướng dẫn thiết kế tuân thủ mức ồn cho phép trong công trình công cộng hay TCXDVN 277: 2002 hướng dẫn thiết kế đảm báo cách âm cho các kết cấu phân cách bên trong nhà dân dụng, nhưng hiện tại tiện nghi âm học không được đưa vào giảng dạy trong chương trình đại học chuyên ngành và số lượng kỹ sư có thể thiết kế hoặc kiểm tra tuân thủ các quy định này còn rất ít...

Hiện nay hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn Việt Nam về xây dựng đang được triển khai theo đúng các mục tiêu và nguyên tắc hoạt động của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Nội dung các quy chuẩn kỹ thuật được soạn thảo, ban hành và áp dụng không tạo ra những trở ngại không cần thiết đối với thương mại quốc tế. Các văn bản quy chuẩn kỹ thuật hoặc tiêu chuẩn và các hướng dẫn có liên quan của các tổ chức tiêu chuẩn hoá quốc tế được sử dụng như là căn cứ để xây dựng hoặc chấp nhận thành tiêu chuẩn của các quốc gia thành viên tùy thuộc vào yêu cầu bảo vệ sức khoẻ an toàn cho con người, môi trường; điều kiện tự nhiên, trình độ khoa học công nghệ hoặc về cơ sở hạ tầng. Nâng dần mức độ hài hoà của hệ thống tiêu chuẩn quốc gia với hệ thống tiêu chuẩn quốc tế trên cơ sở đảm bảo các lợi ích chung của nền kinh tế- xã hội và nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp khi Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của WTO.

Gia Huy

Theo

Cùng chuyên mục
Xem thêm
...

Tin bài cuối cùng

Không còn dữ liệu để load