Quê tôi là vùng đất bãi sông Hồng. Mẹ kể, tôi sinh ra vào một ngày đông muộn. Bà đỡ đã tắm cho tôi bằng thứ nước sông Hồng được đánh phèn để bớt đi cái màu phù sa đỏ quạch. Thuở ấy với tôi, khái niệm về quê hương cứ nhạt nhòa, xa vời vợi… bởi suốt tuổi thơ tôi lớn lên trong lòng Hà Nội.
Hình ảnh về làng quê với mái đình, cây đa, bến nước… đến với tôi chỉ qua những câu chuyện kể của bà, lời ru của mẹ, những bài ca dao trên ghế nhà trường mà thầy giáo già dạy tôi thường ngâm nga, tựa như: “Qua đình ngả nón trông đình/ Đình bao nhiêu ngói thương mình bấy nhiêu”. Hay những câu thơ của cha tôi: “Ngày xuân trai gái trong thôn/ Sang đò trẩy hội trống dồn năm canh/ Đò sang lặng gió không trành/ Mấy cô nghiêng bóng soi mình sửa ngôi”. (Đò chiều - Xuân Thiêm).
1. Vậy mà, như mảnh đất được phù sa bồi đắp theo tháng năm, hình ảnh về quê hương, về cái nôi tôi sinh cứ dày lên rõ nét, sâu đậm dần cùng với vốn sống, sự hiểu biết của một người đã đến độ trưởng thành. Nghề kiến trúc cho tôi cơ hội đi nhiều, đến với nhiều vùng miền của đất nước. Để cho tôi được trở về với niềm đau đáu, đam mê mong tìm thấy ở làng quê nhỏ bé của mình nói riêng và của nông thôn nói chung, một cái gì đấy, giản dị thôi, mà sao lại có sức hấp dẫn đến vậy. Dẫu rằng vùng quê nơi tôi đến, hay trở về vẫn còn nghèo lắm, so với những gì đang hằng ngày, hằng giờ đổi thay đến chóng mặt nơi phồn hoa đô thị trong nền kinh tế thị trường.
Giáo sư kiến trúc Đặng Thái Hoàng (con trai của nhà văn hóa Đặng Thai Mai), người có những kiến giải sâu sắc về kiến trúc đô thị, thường trăn trở nói với tôi, đô thị của chúng ta dù phát triển to, rộng những lại thiếu những “điểm nhấn” hay các “yếu tố điểm” (landmark). Mà theo ông, landmark là hình ảnh gây ấn tượng nhất cho con người với đô thị, nó tạo ra sự phân biệt về phương hướng, vị trí trong thành phố hoặc trong một khu vực. Đó là một loại ký hiệu của cấu trúc đô thị, như tháp Eiffel (Paris-Pháp), tháp truyền hình CN Tower ở Toronto (Canada), tòa tháp đôi Petronas ở Kuala Lumpur (Malaysia)…
Tôi đồng ý với nhận xét của ông. Đấy là về đô thị. Còn kiến trúc nông thôn, mà tôi gọi là kiến trúc làng, thì cái điểm nhấn hay yếu tố điểm kia là gì? Tôi đã từng dự nhiều cuộc hội thảo lớn nhỏ với sự tham gia của nhiều nhà quản lý các cấp, các kiến trúc sư, các nhà quy hoạch, được nghe nhiều những lý luận cao siêu, những lời kêu gọi chung chung khi bàn về kiến trúc nông thôn. Nhưng những nghiên cứu có tính thực tiễn thì vẫn hiếm hoi lắm!
Trên thế giới, không quốc gia nào lại không tồn tại hai môi trường cư trú: đô thị và nông thôn. Mà đã có nông thôn là có làng. Nhưng có lẽ, không ở đâu có cấu trúc làng như ở nước ta. Làng Việt - một kiểu làng đặc trưng của đồng bằng Bắc Bộ, sản phẩm của nền văn minh lúa nước. Làng Việt truyền thống có quy mô không lớn. Làng nằm kề cánh đồng, ruộng lúa sở hữu của cư dân trong làng. Làng nọ cách làng kia cũng bởi cánh đồng làng. Từ ngàn đời nay, mối quan hệ xã hội trong làng chủ yếu là thứ quan hệ “gia đình - họ hàng - làng nước”. Có nhà nghiên cứu Dân tộc học cho rằng, làng là sự mở rộng của huyết thống, nước thì xa hơn, nhưng cùng chung một cội nguồn.
Cấu trúc không gian của làng không phức tạp, nhưng cũng không đơn giản đến mức đơn điệu. Ở đồng bằng Bắc Bộ, hầu như làng nào cũng có lũy tre xanh bao bọc, dù làng nằm trong đê hay ngoài đê (ngoài bãi). Lũy tre xanh ken dày bởi lớp lớp cây tre, măng tre như bức tường thành che chở cho làng khi có cướp, có ngoại xâm, là nơi cung cấp vật liệu cho dân làng làm nhà, làm nông cụ và bao vật dụng sinh hoạt hàng ngày khác. Muốn vào làng phải đi qua cổng làng. Cổng làng xưa thường xây bằng gạch.
Nhiều làng ở vùng trung du và xứ Đoài thì xây bằng đá ong, liên kết bằng vữa vôi trộn với mật mía và muối rất chắc chắn, bền lâu mặc mưa nắng và thời gian. Qua cổng làng là con đường lát gạch nghiêng hình mu rùa. Từ đây ta sẽ bước vào thế giới làng với hệ thống đường ngang, ngõ tắt như xương cá, mà đường làng là cái xương sống. Nhưng dù đi đến đâu, thì nhà nào nhà nấy cứ mở cổng ra là gặp ngõ, qua ngõ là đường làng.
Năm này qua năm khác, người sau nối người trước, tất cả đều đi trên đường làng và đi qua cổng làng. Ai đấy đã ví, cổng làng như sân ga, có đợi chờ, có chia ly. Có nước mắt em nhạt nhòa trong chiều muộn tiễn người yêu lên đường đi xa. Có dáng mẹ gầy xiêu xiêu một đời tần tảo nuôi con chờ chồng đằng đẵng suốt cuộc chiến tranh. Giáo sư Hoàng ơi! Với tôi và có thể cả với ông, cái cổng làng bình dị ấy sao không thể là một “điểm nhấn” là “yếu tố điểm” quan trọng trong cấu trúc làng!
Trong làng có đình, chùa, miếu, nhưng ngôi đình có vị trí đặc biệt nhất trong đời sống xã hội của làng. Đây không chỉ là nơi thờ Thành Hoàng làng, là Tổ nghề hay người làng có công với nước, mà còn là nơi sinh hoạt chung của cộng đồng làng. Nếu coi làng là xã hội Việt Nam thu nhỏ thời phong kiến, thì ngôi đình là hình ảnh của làng. Đấy là nơi diễn ra những cuộc họp của các vị chức sắc, bô lão trong làng.
Từ chuyện làm lễ lên lão cho nhà này, phạt vạ nhà kia có con gái không chồng mà chửa, cho đến việc đại sự của làng như đón sắc phong của vua ban, hội làng… tất tật đều được diễn ra ở sân đình và theo lệ của làng. Đình làng là một công trình kiến trúc đặc sắc, từ kỹ thuật dựng lắp đến nghệ thuật chạm khắc tinh tế trên các hệ vì, bẩy, kẻ… là tinh hoa của nghệ thuật kiến trúc truyền thống. Nhà trong làng xưa hầu hết là nhà gianh, vách đất. Sau này là tường gạch, mái ngói. Kiến trúc hầu như giống nhau.
Có nhà chính, nhà phụ và quay về hướng nam. Nhà chính thường ba gian hai chái và có hiên rộng. Hiên được che bởi một lớp giại đan bằng tre có thể tháo lắp dễ dàng, vừa kín đáo trong sinh hoạt, vừa tiện mở rộng không gian sử dụng khi cần thiết, đồng thời ngăn gió lạnh về mùa đông, che bớt cái nắng gay gắt, chói chang về mùa hè. Nhà chính là nơi ở, nơi thờ cúng tổ tiên, ông bà, nơi tiếp khách. Hai chái nhà thường được xây kín, không mở cửa sổ, là nơi để đồ, hoặc dành làm chỗ ngủ cho đàn bà con gái. Nhà phụ là bếp, kho, có nhà còn để một góc làm chuồng lợn, hay chuồng gà. Nhà chính, nhà phụ thường bố cục theo hình chữ L, ôm lấy khoảng sân rộng.
Trước sân là một cái ao được tạo nên bởi quá trình vật đất tôn nền làm nhà. Chung quanh bờ ao thường trồng cây lưu niên. Trước nhà có vài cây cau thẳng vút, lá xanh mướt, quấn quýt dây trầu không, dưới đặt bể chứa nước mưa. Phía sau nhà là hàng chuối lao xao. Nhà trong làng rất giản dị, nhưng hài hòa với môi trường thiên nhiên trong lành, có vườn cây, ao cá… Chả thế mà xưa cũng như nay, nhiều vị quan khi về hưu thường trở về làng vui thú điền viên là vậy!
2. Những năm gần đây, ở Việt Nam, cụm từ “Phát triển bền vững”, “Kiến trúc xanh” hay được nhắc tới. Đây là các khái niệm xuất hiện vào cuối thập niên 80-90 của thế kỷ trước, do Ủy ban Môi trường và phát triển thế giới của Liên Hợp Quốc đề xướng. Phát triển bền vững và Kiến trúc xanh đã và đang trở thành yếu tố cơ bản trong xây dựng và phát triển kinh tế của nước ta.
Chúng ta đang trong quá trình đô thị hóa mạnh mẽ. Đó là quy luật tất yếu của sự phát triển. Hiện nay, cả nước đã có gần 800 đô thị. Tỷ lệ đô thị hóa đạt 45%. Điều đó có nghĩa là đất nông nghiệp ngày càng thu hẹp lại để nhường đất làm khu công nghiệp, khu đô thị mới, xây dựng hệ thống giao thông…
Khoảng cách giữa làng và đô thị không còn xa nữa. Thậm chí, nhiều nơi phố và làng đã tiếp cận nhau, hòa vào nhau để trở thành phố - làng. Cấu trúc làng truyền thống đang đứng trước nguy cơ bị phá vỡ. Đó là một thực tế. Việc phát huy và giữ gìn không gian kiến trúc truyền thống của làng Việt cùng các nghề đặc trưng là vấn đề lớn rất cần được quan tâm trong quá trình xây dựng nông thôn mới. Lâu nay, chúng ta cứ quen nói “Đô thị hóa nông thôn”.
Đấy là sự nhầm lẫn về khái niệm dẫn đến sai lầm trong bản chất khi thực hiện. Đô thị hóa là quá trình biến một một nơi nào đó thành đô thị. Nhưng không vì thế mà biến nông thôn truyền thống thành đô thị của thời hiện đại. Không gian làng truyền thống với con đê, mái đình, cây đa, bến nước, những ngôi nhà vườn - ao khép kín hài hòa, thân thiện và cân bằng với môi trường thiên nhiên là những đặc trưng cần được bảo lưu và hoàn thiện trong tiến trình phát triển mới.
Chúng ta hiện đại hóa nông thôn là để nông thôn phát triển. Để đời sống nông dân được cải thiện, ấm no theo xu thế chung của xã hội. Để người dân không phải ly hương, rời bỏ mảnh đất ông bà đi kiếm sống nơi đất khách. Để văn hóa làng không bị mất đi. Chúng ta cải thiện hạ tầng kỹ thuật và xã hội ở nông thôn như xây dựng nhà trẻ, trường học, trạm xá…, đường giao thông bê tông, điện, nước sạch, sử dụng hầm chứa phân, rác thải tạo khí bioga để phục vụ sinh hoạt và góp phần làm sạch môi trường.
Chúng ta bảo tồn những giá trị văn hóa tốt đẹp, những nghề truyền thống được vun đắp từ bao đời nay, nhưng kiên quyết xóa bỏ những hủ tục, lệ làng cổ hủ, lạc hậu để xây dựng quy ước xây dựng nông thôn mới, phong tục mới, cuộc sống mới trong một xã hội có kỷ cương, dân chủ, mọi người đều bình đẳng trước pháp luật. Sẽ ra sao khi cấu trúc làng truyền thống biến mất, thay vào đó là những dãy nhà kiểu hàng phố ngất ngưởng 4-5 tầng, kiến trúc lai căng, kệch cỡm với đủ loại biển hiệu, đèn màu “karaoke” “matxa” nhấp nháy… mà ta gọi đó là đô thị hóa(?!).
Người viết bài này cứ mường tượng ra cái làng xưa yêu dấu của mình sẽ được kiến trúc sư “sắp xếp” lại cho hợp lý hơn, tiện nghi hơn, đẹp hơn, để sau lũy tre làng, nép dưới bóng cây là những ngôi nhà một, hai tầng xây bằng vật liệu không nung, mái lợp tôn cách nhiệt. Con đường làng được đổ bê tông, có hệ thống tiêu thoát nước. Ngày ngày, từ cái cổng làng quen thuộc, những nông dân của thời đổi mới ra cánh đồng cao sản làm việc bằng những nông cụ tiên tiến.
Và khi chiều xuống, họ lại trở về sống bình yên trong ngôi nhà thân thuộc với đầy đủ tiện nghi, xem ti vi, hay nghe nhạc… trong một khuôn viên trong lành có vườn cây, ao cá. Rồi những đêm hội làng, trên chiếu chèo ở sân đình, các cô gái xinh đẹp quê tôi lại hóa thân vào những Thị Mầu, Thị Kính qua làn điệu dân ca mượt mà, đằm thắm. Đó là cuộc sống của nông thôn mới trong tương lai gần mà chúng ta cần hướng tới.
3. Tôi đã đọc ở đâu đó một phát hiện lý thú: nếu lấy Huế làm tâm, Đồng Văn ở cực Bắc, phía Nam là đất mũi Cà Mau, quay một vòng ta sẽ được vòng tròn thái cực âm dương. Cái bờ biển cong hình chữ S của Tổ quốc chính là đường tiếp cận âm và dương ấy. Âm là biển Đông. Còn phía đất liền tựa lưng vào dãy Trường Sơn hùng vĩ là dương. Đất cha - Biển mẹ là thế. Cội nguồn của dân tộc, của văn hóa truyền thống cũng bắt đầu từ đó. Nó bền vững trường tồn qua cả nghìn năm Bắc thuộc, rồi sau này là gần trăm năm bị kẻ thù phương Tây đô hộ.
Và kiến trúc làng Việt, một phần của mạch nguồn văn hóa dân tộc cũng chảy mãi không cùng!
KTS Phạm Thanh Tùng
Theo