(Xây dựng) – “Người về đất Nhội quê em; Sông Cà (Lồ) xanh thắm, lúa thơm đồng chiều; Người quê tần tảo chắt chiu; Xôi thơm nếp cái, béo bùi giò mo”. Tôi là đứa ham chơi, ham cả ăn. Có lẽ vì thế mà dừng chân bất cứ nơi đâu, thứ đầu tiên tôi tò mò tìm hiểu chính là đặc sản của vùng miền nơi ấy.
Cuộc đời dạy học lại chọn chốn gần nhà không cho tôi nhiều cơ hội để đi đây đó nhiều, nhưng bù lại tôi có thời gian gắn bó với chính mảnh đất mình đang sống bằng thứ tình cảm chân phương. Có lẽ vì thế mà tôi yêu những thứ bình dị, giản đơn nhất ở nơi đây. Bánh chưng đất Nhội và giò mo là hai trong số nhiều hương vị ẩm thực tưởng như nơi nào cũng có nhưng với tôi thì chỉ có ở đây, đúng mảnh đất Nhội này, nó mới thực sự là một món ăn mang đủ đầy trong trái tim tôi những yêu thương.
Người làng quê, cái mo cau là thứ quen thuộc mà ai ai cũng biết đến. Nó là phần bẹ của lá cau ôm lấy thân cau. Thường mỗi khi lá rụng người quê tôi lại cắt lấy phần mo đem gác lên chái bếp. Những chiếc mo ấy mỗi khi nhà có việc lại được dùng vào việc bó giò.
Tôi cứ nhớ đến dịp Tết Nguyên đán, ngày 25 tháng Chạp âm lịch, kiểu gì mẹ cũng mua về một chiếc mo to hoặc lấy nhà bà ngoại một cái vì bà có cả vườn cau. Mẹ đem mo ấy ngâm vào nước đến ngập mới thôi. Cái mo ngâm trong nước đến ngày thứ hai thì mềm hẳn xuống, đến lúc mà mẹ đưa cho tôi để ngồi bóc phần vỏ ngoài mặt trong cái mo cho nó trắng đẹp, rồi lấy muối xát kỹ nhằm giúp mo trắng và sạch sẽ thì nó đã có thể gập lại như một tờ giấy bìa. Thể nào bố kỹ tính cũng đem nó trần vào nồi nước sôi lần nữa rồi mới để ra cho ráo nước.
Thịt con lợn béo thì giò càng thơm ngon. Mẹ mua hẳn 5 - 6 kg thịt mông sấn với ít phần tai và mũi lợn cộng thêm chút bì cho giò dính kết đẹp hơn.
Thịt lợn thái miếng con chì khá to. Bì lợn làm sạch, đem trần chín rồi thái sao cho đều kích cỡ với phần thịt để đến khi cắt miếng giò ra, các phần thịt mới đều đẹp.
Này nhé, nhóm cái bếp củi đỏ rực cháy bập bùng vào một buổi chiều cuối đông lạnh đến se lòng đã thấy ấm áp lắm rồi. Những miếng thịt lợn được bố dùng chiếc đũa cả đảo trên cái xoong sáu mươi hoặc cái chảo gang lớn. Mùi thịt xém cạnh cùng tiếng xèo xèo của nó khiến cho những đứa trẻ háu đói cứ nhìn chăm chăm chẳng muốn rời mắt tẹo nào. Vì đun củi giỏi nên tôi hay được bố cho canh bếp. Và thế nào khi ông cho vào chảo thứ mắm cốt thơm nức mũi, vài thìa mì chính và nhiều nhiều hạt tiêu để cho mỡ trong thịt reo lên như vui mừng và sau đó là thứ mùi thơm béo bùi ngào ngạt bốc lên trên cái chảo, tôi sẽ rón rén xin bố lấy một miếng cho vào cái mẩu lá dong mẹ gói bánh còn thừa. Kết thúc phi vụ trông chảo canh giò, tôi sẽ nhảy chân sáo chạy ra khoe với lũ bạn hàng xóm về chiến lợi phẩm của mình.
Lúc đó, bố đang ngồi ở cửa bếp, đổ thật nhanh phần thịt vào trong chiếc mo rồi dùng lạt giang khéo léo gò cái mo lại, sau đó ông sẽ siết chặt dần dần chiếc giò cho đến khi nó chặt ních, hằn lên những khúc bóng nhẫy thì một lúc sau, ông sẽ dựng nó lên, nhanh tay đổ một siêu nước thật nóng để phần mỡ không còn bám lại trên mặt ngoài chiếc giò. Cuối cùng ông sẽ dùng dây lạt treo nó lên trái bếp để đợi đến tối Ba mươi.
Tôi chờ mãi đến lúc mà ông sắp mâm cơm cúng chiều Ba mươi. Đó là lúc ông lấy chiếc giò ra và cắt một khoanh tròn rồi dùng con dao sắc nhất pha nó thành những miếng vừa ăn đặt vào mâm cơm.
Miếng giò mo phẳng lì và vô cùng bắt mắt. Nó có màu vàng cánh gián của thịt xém cạnh, màu trắng của thịt mỡ nổi màu dưới trời rét và màu đen thơm lừng của hạt tiêu giã dập.
Gắp miếng giò thơm mùi thịt beo béo, phảng phất cái lạ lùng của mùi mo cau quyện trong cái vị mắm muối của thịt xào. Chấm nhẹ vào bát mắm cốt mà ăn kèm với bánh chưng Nhội của tôi. Chao ôi là ngọt, chao ôi là béo, chao ôi là giòn sừn sựt. Thứ hương vị ấm áp của nó vẹn cả đời này cứ theo tôi chẳng bao giờ làm tôi thấy chán.
Theo thời gian, người ta bắt đầu biến tấu dần để công đoạn bó giò trở nên nhàn nhã hơn. Nhưng mùi vị của mo cau và cái cảm giác ấm áp của khoảng thời thơ ấu tranh nhóm bếp củi canh giò của tôi thì mãi mãi vẫn thế. Yêu và trọn đời còn yêu.
Lê Huyền
Theo