(Xây dựng) - Xung quanh bí ẩn đền tháp Chăm, chúng tôi có buổi phỏng vấn ông Nguyễn Hữu Thông, Phân viện trưởng, Phân viện Văn hóa Nghệ thuật Việt Nam tại Huế về vấn đề này.
Ông Nguyễn Hữu Thông: Việc xây dựng tháp Chăm có sự tham gia của những nhà sư, thương nhân và thợ thủ công Ấn Độ trong đó.
Hiện nay có hai lý giải về những bí ẩn của tháp Chăm được dư luận quan tâm nhất. Đó là việc ông Lê Văn Chỉnh, một người thợ thủ công đã dùng kỹ thuật “mài chập” để tạo nên một “đền tháp Champa của thế kỷ XXI” tại Đà Nẵng vào năm 2003 và sự kiện Quảng Nam tuyên bố các nhà khoa học của Đại học Milan, Italia đã tìm ra loại vật liệu kết dính gạch đền tháp Champa là loại keo được tinh chế từ cây dầu rái. Ông đánh giá thế nào về 2 sự kiện này?
- Vấn đề kỹ thuật xây dựng đền tháp Champa là một vấn đề hóc búa, với nhiều giả thuyết. Từ thời khai phá các đến tháp Champa (cuối thế kỷ XIX) cho đến nay, các học giả Ý, Pháp, Ba Lan và Việt Nam vẫn chưa ai đưa ra được một kết luận cuối cùng. Bởi công tác khai quật khảo cổ và việc tìm ra chính xác thành phần kết dính vẫn còn đang được tiến hành.
Về lý giải của ông Lê Văn Chỉnh, đó là kỹ thuật mãi nhẵn hai viên gạch để tạo ra hỗn vị cho gạch. Hỗn vị này là bột gạch, chất kết dính hai viên gạch lại với nhau. Điều này có thể kiểm chứng ở các tháp ở Indonesia.
Tuy nhiên, “đền tháp Champa của thế kỷ XXI” của ông Lê Văn Chỉnh chỉ là nên một mô hình tháp Chăm, tỉ lệ nhỏ hơn rất nhiều so với tỉ lệ thực. Cho nên khả năng chịu lực từng viên gạch thấp hơn rất nhiều so với thực tế. Do đó, mô hình tháp khó có thể bền vững qua hàng thế kỷ như tháp Chăm.
Thứ nữa, gạch xây tháp Chăm có sự hiện hữu của dầu rái. Nhưng dầu rái không phải là chất duy nhất trong gạch. Chất kết dính các viên gạch tháp Chăm là nguyên chất (dầu rái) hay là hợp chất vẫn chưa có kết luận.
Lòng tháp Mỹ Sơn.
Kết luận khoa học, nhất là khoa học xây dựng phải thông qua thực nghiệm và các thông số. “Bột gạch” hay “dầu rái” chỉ là dừng lại ở vị thế những giả thuyết, nêu ra những giải pháp nhưng lại chưa có kiểm chứng về tính chính xác cuối cùng.
Những bí ẩn của gạch tháp Chăm như không bị rêu phong, đen sạm vì mưa gió và dòng thời gian đã được lý giải chưa, thưa ông?
- Gạch Chăm có độ nung rất cao (trên 1000 độ C) và tính hoản chỉnh của từng viên gạch rất lớn. Khi đó, gạch trở thành “ghè”, không còn chịu ảnh hưởng của môi trường bên ngoài (mưa, gió, sinh vật tầm gửi…). Chất liệu sét, kỹ thuật nung và độ nung tạo nên một viên gạch Chăm hoàn hảo.
Tuy nhiên, không phải tháp Chăm nào cũng có được loại gạch như vậy. Như tháp Mỹ Khánh của Huế bị vùi dưới cát nhưng sau khi phát hiện thì nhiều viên gạch đã bị biến thành bột sau đó (có thể cũng là do bị nước biển ngấm vào). Song so với một tháp Chăm đỉnh cao, như ở Mỹ Sơn thì gạch của tháp Mỹ Khánh ở Huế kém hơn rất nhiều.
Như vậy kỹ thuật xây dựng tháp Chăm là một quá trình, đi từ thấp đến cao?
- Đúng như vậy. Kỹ thật xây dựng tháp Chăm trải qua 3 giai đoạn: Giai đoạn 1 (thế kỷ II – VI), tháp chỉ xây bằng gỗ và chỉ có tượng thờ; giai đoạn 2, tháp xây theo cách tường gạch và mái gỗ và đã có hệ thống tượng thờ hoàn chỉnh. Tháp Phú Diên, Mỹ Khánh ở Huế thuộc giai đoạn này; giai đoạn 3 (thế kỷ VI – XVII), tháp được xây dựng hoàn chỉnh có sự tham gia của đá sa thạch.
Về quy trình xây dựng tháp Chăm, theo ông người Chăm xưa đã thực hiện như thế nào?
- Hiện có ba quan điểm về vấn đề này. Đầu tiên, có quan điểm cho rằng: Người Chăm nung gạch, dùng chất kết dính và xây lên. Quan điểm này đã có từ lâu nhưng vẫn chưa xác định được khả năng.
Thứ nữa, có quan điểm cho rằng: Đất sét phơi khô và nung cả tháp. Quan điểm này không được thừa nhận vì những viên gạch giãn nở khác nhau trong khi nung gây ra sự đổ vỡ.
Quan điểm thứ ba lại cho rằng: Người Chăm xây tháp chừng nào nung chừng nấy. Rồi độn đất vào lòng tháp. Như vậy vòm mới có thể xây dựng được. Quan điểm này rất có lý.
Tuy nhiên, do các quan điểm khác xa nhau tháp Chăm vẫn là ẩn số. Chính vì vậy, tuy bé nhỏ so với Angkor (Campuchia) và các kiến trúc Ấn Độ giáo khác nhưng tháp Chăm lại vững chãi trên 1000 năm. Và ẩn số về gạch xây tháp Chăm vẫn chưa ai lý giải được.
Dân gian Chăm đến nay vẫn lưu giữ truyền thống “nung toàn khối”. Phải chăng quan điểm thứ hai về quy trình xây dựng tháp Chăm là đúng?
- Về việc “nung toàn khối” đúng là một truyền thống của người Chăm. Hiện nay lò gốm ở Bàu Trúc, Phan Rang được đánh giá là lạc hậu nhất thế giới, không có bàn xoay và chất củi đốt (không dùng than) nên nhiệt độ tạo ra chỉ 300 – 400 độ C.
Tuy nhiên, nếu nung toàn khối tháp Chăm thì không thể thực hiện ngoài trời được. Vì nhiệt độ chỉ đạt 500 – 600 độ C. Trong khi gạch tháp Chăm hoàn chỉnh đã lên tới độ nung 1000 độ C.
Và nếu nung ở lò nung thì gạch cũng không thể “chín đều” như vậy được. Vì có chổ gạch nằm ở lỗ thông hơi, có gạch nằm ở chỗ gần củi đang cháy. Có lẽ chỉ có lò ga hiện đại mới đạt độ hoàn chỉnh đến như vậy.
Gạch Chăm tại Nhà trưng bày hiện vật Mỹ Sơn.
Còn quan điểm cho rằng nung gạch sống nguyên khối thì lại càng khó. Vì nung gạch sống thì tạo sự đùn đẩy vì thông số có giãn mỗi viên gạch chắc chắn là không giống nhau.
Là người am hiểu tháp Chăm như vậy, ông có kiến giải nào của riêng mình không?
- Trong cuốn kỷ yếu 10 năm thành lập Viện Văn hóa Nghệ thuật Việt Nam tôi có viết một bài về chủ đề này. Tôi kiến giải rằng việc xây dựng tháp Chăm có sự tham gia của những nhà sư, thương nhân và thợ thủ công Ấn Độ trong đó.
Như ngói lưu ly của nhà Nguyễn có sự tham gia của nghệ nhân Trung Quốc với vai trò thợ cả, và sau này, khi họ về nước thì các xưởng ngói triều Nguyễn cũng bị suy tàn. Như vậy, nếu muốn tạo ra một viên gạch chất lượng như gạch Chăm thì người Chăm phải có một truyền thống làm gạch.
Nhưng qua khảo sát thì gạch lại không hề hiện diện trong đời sống của người Chăm. Kể cả công trình dân sinh và tín ngưỡng dân gian. Duy có thành lũy và tháp Chăm mới sử dụng gạch và lại là gạch đã ở đỉnh cao.
Chỉ có một cách suy diễn: Thời đó các thương nhân và các nhà sư Ấn Độ đến Champa buôn bán, truyền đạo rất đông tại cả tiểu quốc Champa. Cuộc buôn bán đã diễn ra rất hời cho bên các thương nhân Ấn Độ. Họ bán các loại hàng hóa rẻ tiền rất được giá và mua về Ấn Độ sừng tê giác, vàng bạc. Do đó, họ đã hào phóng “biếu” cho các ông vua Chăm của những tiểu quốc Champa những tòa tháp Chăm để lưu dấu vương quyền của các ông vua này.
Về thợ xây tháp Chăm, các thương nhân Ấn Độ đa tập hợp các thợ xây Ấn Độ khá dễ dàng. Bởi Ấn Độ luôn loạn lạc, chia rẽ nên các thợ xây Ấn Độ, bậc thầy về sử dụng gạch để xây dựng công trình tôn giáo đã vượt biển để tìm kiếm sự mưu sinh.
Tôi đã nghiên cứu về gạch xây dựng của Ấn Độ rất kĩ và đã trích dẫn trong bài viết của tôi trong kỷ yếu. Tuy nhiên, quan điểm của tôi lại đụng chạm đến lòng tự tôn của dân tộc Chăm.
Khu thánh địa Mỹ Sơn.
Nhưng cho đến nay, ngoài những đả kích mang tính chính trị thì vẫn chưa có một học giả nào phản biện khoa học đối với quan điểm của tôi. Tuy nhiên, tôi nhấn mạnh trong khoa học thì giả thuyết sai là chuyện bình thường.
Xin cảm ơn ông về cuộc trao đổi thú vị này!
Phát biểu trong một hội thảo về Champa mới nhất được tổ chức tại Đà Nẵng, J.C. Sharma, nguyên Đại sứ Ấn Độ tại Việt Nam cho rằng: “Những ảnh hưởng của Ấn Độ được thừa nhận rộng rãi lên nghệ thuật Champa bắt nguồn từ các trường phái nghệ thuật Amaravati, Gupta, Chalukya và Pallava. Dấu vết của các trường phái Pala hay Sena cũng được tìm thấy. Hợp lí khi cho rằng, một số thợ thủ công, đặc biệt là các nhà điêu khắc, hẳn phải đến từ Ấn Độ. Họ hẳn đã giới thiệu trực tiếp đến đây một vài đặc điểm của nghệ thuật điêu khắc và kiến trúc của quê hương họ. Sự ảnh hưởng gián tiếp từ Ấn Độ đến Champa còn qua sự tương tác của Champa với Camboge, Java, Siam và Sri Lanka”. “Gạch, vật liệu xây dựng chính được sử dụng bởi các nghệ nhân Chăm, cũng đã được sử dụng tại Ấn Độ… Gần đây tôi đã đến thăm một ngôi đền vào thời Gupta ở Sirpur, Chhatisgarh. Ngôi đền gạch này có sự tương đồng rõ ràng với các ngôi đền gạch ở Champa”, ông J.C. Sharma khẳng định. |
Nguyễn Văn Toàn
Theo