(Xây dựng) – Đó là đề xuất của Hiệp hội bất động sản thành phố Hồ Chí Minh (HoREA) tại văn bản số 158/2023/CV- HoREA góp ý một số quy định của Dự thảo Luật các tổ chức tín dụng (sửa đổi) gửi Quốc hội và Ngân hàng Nhà nước mới đây.
Theo HoREA, hầu như tất cả tổ chức tín dụng đều có hoạt động kinh doanh khác, mà chủ yếu là hoạt động kinh doanh BĐS do đã được "bật đèn xanh" cho phép…(Ảnh: T/L). |
Theo Chủ tịch HoREA Lê Hoàng Châu, tại khoản 2 Điều 90 Luật Các tổ chức tín dụng 2010 và khoản 2 Điều 98 Dự thảo Luật Các tổ chức tín dụng đều quy định tổ chức tín dụng không được tiến hành bất kỳ hoạt động kinh doanh nào ngoài các hoạt động ngân hàng.
Ngoài ra, Điều 132 Luật các tổ chức tín dụng 2010 và Điều 138 Dự thảo Luật các tổ chức tín dụng đều quy định tổ chức tín dụng không được kinh doanh bất động sản (BĐS).
Tuy nhiên, do quy định tiếp theo tại khoản 2 Điều 90 Luật các tổ chức tín dụng 2010 và khoản 2 Điều 98 Dự thảo Luật các tổ chức tín dụng lại cho phép tổ chức tín dụng được thực hiện hoạt động kinh doanh khác ghi trong Giấy phép được Ngân hàng Nhà nước cấp cho tổ chức tín dụng"và do quy định tiếp theo về các trường hợp "ngoại lệ" được phép hoạt động kinh doanh BĐS tại Điều 132 Luật các tổ chức tín dụng 2010 và Điều 138 Dự thảo Luật các tổ chức tín dụng.
HoREA nhận định, các quy định này đã dẫn đến tình trạng thực tế là hầu như tất cả tổ chức tín dụng đều có hoạt động kinh doanh khác, mà chủ yếu là hoạt động kinh doanh BĐS do đã được "bật đèn xanh" cho phép.
Đơn cử hai trường hợp đó là, trường hợp thứ nhất, với quy định cho phép mua, đầu tư, sở hữu BĐS để sử dụng làm trụ sở kinh doanh, địa điểm làm việc và được phép cho thuê một phần trụ sở kinh doanh thuộc sở hữu của tổ chức tín dụng chưa sử dụng hết.
Việc này đã dẫn đến tình trạng tổ chức tín dụng có xu hướng mở rộng mạng lưới chi nhánh, địa điểm làm việc, cơ sở kho tàng, nhất là xây dựng các tòa nhà cao ốc văn phòng hoành tráng để vừa làm trụ sở, vừa có một phần không nhỏ trụ sở kinh doanh thuộc sở hữu của tổ chức tín dụng chưa sử dụng hết để kinh doanh BĐS cho thuê.
Trường hợp thứ hai, với quy định cho phép nắm giữ BĐS do việc xử lý nợ vay, mà theo Luật các tổ chức tín dụng 2010 thì tổ chức tín dụng chỉ được nắm giữ trong thời hạn 03 năm kể từ ngày quyết định xử lý tài sản bảo đảm là BĐS thì các tổ chức tín dụng mới phải bán, chuyển nhượng hoặc mua lại BĐS này.
Quy định trên đã tạo "dư địa" cho các tổ chức tín dụng thực hiện hoạt động kinh doanh BĐS không khác gì hoạt động của một doanh nghiệp kinh doanh BĐS chuyên nghiệp.
Dự thảo Luật các tổ chức tín dụng tăng thời hạn cho phép nắm giữ BĐS do việc xử lý nợ vay lên 05 năm thì càng rộng đường thực hiện hoạt động kinh doanh BĐS của các tổ chức tín dụng.
Do đó, HoREA đề nghị nên cần sửa đổi, bổ sung khoản 2 Điều 98 và Điều 138 Dự thảo Luật các tổ chức tín dụng, để quy định chặt chẽ các trường hợp mà tổ chức tín dụng được hoạt động kinh doanh khác hoặc được hoạt động kinh doanh BĐS. Đồng thời, cần xem xét quy định tỷ lệ mức trần doanh thu kinh doanh BĐS không vượt quá 15% doanh thu của tổ chức tín dụng.
Đặc biệt, HoREA đề nghị Ngân hàng Nhà nước xem xét chặt chẽ việc cho phép thực hiện hoạt động kinh doanh khác ghi trong Giấy phép được Ngân hàng Nhà nước cấp cho tổ chức tín dụng, nhất là hoạt động kinh doanh BĐS cho thuê văn phòng tùy thuộc năng lực của từng tổ chức tín dụng…
Đan Linh
Theo