(Xây dựng) - Mới đây, Quốc hội đã chính thức thông qua Hiệp định Thương mại tự do giữa Việt Nam – Liên minh châu Âu (EVFTA) và dự kiến sẽ bắt đầu có hiệu lực kể từ đầu tháng 8 tới đây. Hiệp định này nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động xuất khẩu giữa Việt Nam và các nước khối châu Âu với nhiều ưu đãi.
Khu văn phòng, nhà xưởng tiêu chuẩn cho thuê Đồ Sơn (Ảnh minh họa). |
Theo đó, Hiệp định tạo điều kiện xóa bỏ hàng rào thuế quan, thống nhất các nội dung liên quan đến thủ tục hải quan và phòng vệ thương mại, cam kết mở cửa mua sắm hàng hóa và dịch vụ công của các Bộ, ngành Trung ương, mở ra cơ hội cho các nhà đầu tư nước ngoài. Hiệp định cũng tạo động lực thúc đẩy hoạt động chuyển giao công nghệ cao, đồng thời tăng cường thu hút dòng vốn ngoại vào nhiều lĩnh vực khác nhau tại Việt Nam.
Thống kê của Tổng cục Hải quan, khu vực châu Âu là một trong những đối tác thương mại chiến lược của Việt Nam sau khu vực châu Á – Thái Bình Dương và Mỹ. Tổng giá trị xuất khẩu giữa Việt Nam và EU (bao gồm cả Vương quốc Anh) đạt 56,39 tỷ đô la Mỹ trong năm 2019, chiếm 15,7% tổng giá trị xuất khẩu của Việt Nam.
Năm lĩnh vực xuất khẩu chính của Việt Nam là: Điện thoại, máy tính, dệt may, da giày, thiết bị điện tử & linh kiện (trong đó ba mặt hàng xuất khẩu chủ lực bao gồm: Điện thoại, máy tính, thiết bị điện tử & linh kiện).
Hiệp định Thương mại tự do giữa Việt Nam – Liên minh châu Âu (EVFTA) sẽ thúc đẩy những biến chuyển tích cực cho thị trường bất động sản công nghiệp trong nước. Xu hướng dịch chuyển sản xuất từ Trung Quốc sang Việt Nam, cùng với làn sóng vốn ngoại đổ bộ vào lĩnh vực sản xuất sẽ kéo theo nhu cầu cho các sản phẩm bất động sản công nghiệp (đất và nhà xưởng xây sẵn) ngày càng tăng cao.
Ông Lê Trọng Hiếu - Giám đốc Bộ phận Tư vấn & giao dịch - dịch vụ bất động sản công nghiệp của CBRE Việt Nam cho biết: “Hiệp định thương mại này sẽ góp phần rất lớn đến bức tranh kinh tế của Việt Nam, đồng thời tạo động lực hồi phục sau đại dịch Covid-19. Đặc biệt những thành quả trong công tác phòng chống dịch thời gian qua sẽ giúp Việt Nam tiếp tục đón làn sóng dịch chuyển của các công ty sản xuất từ Trung Quốc sang”.
Ông Hiếu cho biết thêm: “Trước đây, CBRE Việt Nam nhận thấy yêu cầu thuê từ các công ty châu Âu còn hạn chế, tuy nhiên, chúng tôi tin rằng nhu cầu thuê bất động sản công nghiệp từ các công ty này sẽ tăng lên trong thời gian sắp tới. CBRE cũng dự đoán nhu cầu thuê sẽ chủ yếu đến từ các nhóm ngành như: Máy móc & thiết bị (Phụ tùng/Linh kiện ôtô), thiết bị điện tử và may mặc”.
Nguồn: CBRE Việt Nam, tháng 6/2020. |
Các ngành nghề liên quan đến phụ tùng/linh kiện ôtô được kỳ vọng sẽ được hưởng lợi nhiều nhất từ EVFTA. CBRE nhận thấy các nhà cung ứng cấp 1 đang mở rộng nhanh chóng tại thị trường Việt Nam, điển hình như Bosche, Schaeffler, Mitsubishi Motors, Yazaki, Daimler...
Hơn nữa, Việt Nam là đất nước có dân số lớn thứ 3 trong khối ASEAN với 96 triệu dân. GDP trên đầu người tại Việt Nam đạt trung bình là 3.500 USD trong năm 2019, vượt qua tiêu chuẩn 3.000 USD của một người có thể sở hữu xe ôtô (theo Thời báo Nikkei).
Thị trường bất động sản công nghiệp cũng vì thế mà được dự đoán sẽ hoạt động rất tốt trong những năm tiếp theo nhờ vào sự hạn chế nguồn cung (đất, nhà xưởng xây sẵn và nhà kho) trong bối cảnh nhu cầu từ các công ty lắp ráp, phụ tùng và mua bán ô tô tăng nhanh. Các cụm công nghiệp nằm gần cảng hoặc gần cụm sản xuất ôtô sẽ thu hút nhiều nhà đầu tư mới.
Các tỉnh phía Bắc như Vĩnh Phúc, Hưng Yên, Hải Phòng và Hải Dương được dự kiến sẽ trở thành tâm điểm đầu tư trong tương lai. Các tỉnh phía Nam như Long An và thành phố Vũng Tàu với lợi thế thuận tiện di chuyển đến cảng Hiệp Phước và Cái Mép cũng hứa hẹn có nhiều tiềm năng phát triển cho nhà đầu tư.
Tuy nhiên, khi cơ hội được mở ra thì cũng chứa đựng những rủi ro tiềm tàng. Việc chuyển dịch sản xuất vào Việt Nam một cách đột ngột sẽ có thể dẫn đến việc tắc nghẽn do thị trường đang rất khan hiếm nguồn cung. Các nhà đầu tư cũng sẽ không có đủ thời gian để cung cấp ra thị trường các sản phẩm phục vụ công nghiệp có chất lượng do công tác này tốn khá nhiều thời gian, đặc biệt là về các thủ tục pháp lý.
Thêm vào đó, việc thiếu nguồn nhân lực tạm thời và hệ thống cơ sở hạ tầng còn hạn chế sẽ là những rào cản của Việt Nam đến triển vọng tăng tưởng của thị trường bất động sản công nghiệp trong ngắn hạn. Đối mặt với các thách thức trên, nhà đầu tư đã có sẵn quỹ đất sạch nên tăng tốc trong việc xây dựng nhà xưởng để chuẩn bị cho những cơ hội mở rộng mới.
Ngoài ra, các nhà đầu tư mới vào hoặc đang quan tâm đến thị trường cần phải chủ động ngay để nắm bắt những cơ hội phát triển hiếm có này. Chính phủ Việt Nam cũng nên tìm ra những biện pháp phù hợp để giải quyết những bất cập trên nhằm đảm bảo việc tối đa hóa lợi thế cạnh tranh cho doanh nghiệp trong nước từ hiệp định tự do thương mại này.
Kim Oanh
Theo