Tập trung thu hút đầu tư có trọng điểm, chọn lọc để vốn FDI đạt hiệu quả hơn.
Rất dễ để lý giải tình trạng này, bởi lẽ, ngay từ đầu năm, các chuyên gia kinh tế đều chỉ ra rằng, do khủng hoảng tài chính toàn cầu, trong năm nay, thu hút FDI sẽ giảm tốc sau một năm tăng kỷ lục. Thực tế này cũng đã diễn ra từ đầu năm tới nay và con số thống kê sau 7 tháng đã cho thấy điều đó.
Tuy nhiên, đáng lo là, cùng với việc sụt giảm thu hút dự án đầu tư mới, những động thái gần đây cho thấy, khả năng giải ngân với những dự án đã được cấp chứng nhận đầu tư cũng rất khó khăn, mà nguyên nhân chính đều xuất phát từ những ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế.
Dự án Khu du lịch cao cấp và vui chơi giải trí trên diện tích 1.000ha, trị giá 1 tỷ đô-la Mỹ, của Tập đoàn Rockingham (Hoa Kỳ) ở tỉnh Kiên Giang có thể coi là một trong những ví dụ điển hình. Dự án này tuy chưa được cấp giấy chứng nhận, mà mới chỉ có chủ trương đầu tư, nhưng đã bị thu hồi. Trong khi đó, gần đây, UBND tỉnh Ninh Thuận đã phải có văn bản yêu cầu Tập đoàn Lion Group (Malaysia) xác định khả năng đầu tư Dự án Khu liên hợp thép Cà Ná tại huyện Ninh Phước. Lion Group đã liên doanh với Tập đoàn Công nghiệp Tàu thuỷ Việt Nam (Vinashin) để thực hiện dự án thép có tổng vốn đầu tư lên tới 9,8 tỷ đô-la Mỹ. Tuy nhiên, kể từ khi động thổ giai đoạn I, công suất 4,5 triệu tấn/năm, vào cuối tháng 11/2008 tới nay, Dự án vẫn bị “treo”. Hiện mới chỉ có Vinashin đầu tư 84 tỷ đồng để GPMB cho Dự án. UBND tỉnh Ninh Thuận yêu cầu Lion Group trả lời dứt khoát về khả năng đầu tư trong trường hợp Chính phủ Việt Nam không có cơ chế bảo lãnh tín dụng cho Dự án Khu liên hợp thép Cà Ná theo đề nghị của Tập đoàn này. Nếu Lion Group từ chối, Ninh Thuận có thể sẽ rút giấy phép đối với Dự án.
Chưa nhiều dự án lâm vào tình trạng này, song rõ ràng, đây là một thực tế cần được cảnh báo. Không thể không thừa nhận sức hút của thị trường Việt Nam là rất lớn và cho tới thời điểm này, nhiều nhà đầu tư vẫn tin tưởng vào tiềm năng của thị trường Việt Nam, song cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đã “bó chân” các nhà đầu tư. Những tác động này ngày càng trở nên rõ rệt hơn bao giờ hết.
Chính vì vậy, theo các chuyên gia kinh tế, không chỉ cần tiếp tục thúc đẩy dòng vốn FDI vào Việt Nam, mà đã tới lúc cần quan tâm hơn tới cơ cấu của dòng vốn này, cũng như những tác động lan tỏa của nó đối với nền kinh tế.
Đây là một thực tế đã được nhắc tới nhiều trong thời gian qua. Bởi lẽ, trong cơ cấu vốn FDI vào Việt Nam, vốn dành cho lĩnh vực BĐS là quá lớn. Mà đã đầu tư vào BĐS, một điều không thể phủ nhận là, đồng vốn thực tế mang về không khổng lồ như vốn đăng ký đầu tư. Hầu hết các nhà đầu tư hiện nay đều đang thực hiện dự án BĐS theo kiểu chỉ bỏ ra một phần vốn, sau đó huy động vốn trong nước để thực hiện. Hơn thế, việc đầu tư vào bất động sản, trên thực tế không mang lại giá trị thực cho nền kinh tế.
Quá trình phân cấp đầu tư rõ ràng đã mang lại những thành quả không nhỏ trong thu hút đầu tư. Song sau một thời gian dài thực hiện cơ chế này, những tồn tại, bất cập cũng đã bắt đầu xuất hiện. Đôi khi vì thành tích, nên sự dễ dãi trong cấp phép đầu tư là rất dễ xảy ra. Không những vậy, do thiếu tầm nhìn chiến lược, tầm nhìn vùng, nên có thể, một số dự án đã phá vỡ quy hoạch chung của cả một vùng kinh tế. Đây là điều cũng đã được cảnh báo.
Rõ ràng, rất nhiều điều cần nói về dòng vốn này. FDI đã đóng góp rất lớn vào quá trình phát triển kinh tế trong thời gian qua của Việt Nam. Tuy nhiên, có lẽ đã tới lúc, không thể thu hút đầu tư bằng mọi giá, mà phải thu hút đầu tư có trọng điểm, có chọn lọc và đánh giá một cách thực chất hơn hiệu quả của đồng vốn này đối với nền kinh tế. “Không thể đổ lỗi cho nhà đầu tư nước ngoài chỉ nghĩ đến lợi ích riêng. Điều đáng trách là ở chúng ta khi thu hút FDI, chỉ ham có nhiều dự án, nhiều vốn, hài lòng với tốc độ tăng GDP, tăng xuất khẩu mà không đi sâu vào tác động thực chất của FDI đối với sản xuất, dịch vụ và đời sống trong nước”, một chuyên gia kinh tế nói.
Nhật Hạ
Theo baoxaydung.com.vn