Thứ bảy 14/09/2024 00:14 24h qua English RSS
Hotline: 094 540 6866
Trang chủ / Xã hội /

Lào Cai: Trung tâm kinh tế, văn hoá khu vực Tây Bắc

10:05 | 26/10/2010

Lào Cai là một tỉnh cửa ngõ biên cương phía Tây Bắc của Tổ quốc, có điều kiện thuận lợi về giao thông đường thuỷ, đường bộ và đường sắt; có một cửa khẩu quốc tế, một cửa khẩu quốc gia và nhiều cửa khẩu phụ thông thương với Trung Quốc, vì vậy Lào Cai có vị trí chiến lược quan trọng cả về kinh tế - chính trị - an ninh - quốc phòng.


Đồng chí Nguyễn Hữu Vạn -  Bí thư Tỉnh ủy Lào Cai kiểm tra tiến độ xây dựng Nhà máy Thủy điện Sử Pán 2.

Trong 5 năm qua, mặc dù gặp nhiều khó khăn, thách thức, nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh, sự năng động, sáng tạo của các cấp, các ngành, sự nỗ lực phấn đấu của nhân dân các dân tộc trong tỉnh, kinh tế - xã hội của tỉnh Lào Cai đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng hầu hết các mục tiêu do Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIII đề ra đều đạt và vượt. Kinh tế tiếp tục duy trì tốc độ phát triển cao, bình quân 13%/năm. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực, năm 2010 tỷ trọng nông, lâm nghiệp giảm còn 27,9%; công nghiệp - xây dựng tăng lên 34,2%; dịch vụ tăng lên 38%. Các thế mạnh về khai thác, chế biến khoáng sản, kinh tế cửa khẩu, du lịch được phát huy, trở thành các ngành kinh tế trọng yếu của tỉnh.

Với 80% dân số sống ở vùng nông thôn, vùng cao, Lào Cai tiếp tục xác định “nông nghiệp, nông thôn là mặt trận hàng đầu” và đã chỉ đạo tập trung nguồn lực cho phát triển nông nghiệp và nông thôn. Đã chuyển đổi cơ cấu cây trồng theo hướng sản xuất hàng hoá gắn với thị trường tiêu thụ. Các vùng sản xuất hàng hóa như: lúa, ngô, chè, chuối, dứa… được hình thành. Tổng sản lượng lương thực có hạt đạt 220 nghìn tấn, vượt 20 nghìn tấn so mục tiêu đề ra. Giá trị sản xuất trên 1 ha canh tác tăng nhanh từ 14 triệu đồng năm 2005, lên 30,5 triệu đồng năm 2009.

Phát triển công nghiệp được xác định là khâu “đột phá”, vì vậy tỉnh đã chú trọng huy động mọi nguồn lực để phát triển công nghiệp. Bình quân hàng năm giá trị sản xuất công nghiệp tăng 27,6%, tạo ra việc làm mới cho gần 21.000 lao động. Năm 2010, giá trị sản xuất đạt 2.224 tỷ đồng, tăng hơn 3,5 lần so với năm 2005.

Lào Cai coi trọng xây dựng, điều chỉnh quy hoạch đô thị trên địa bàn, hoàn thiện quy hoạch khu hành chính mới của tỉnh, quy hoạch xây dựng Khu thương mại - công nghiệp Kim Thành, các khu công nghiệp và tiểu - thủ công nghiệp trên địa bàn toàn tỉnh đến năm 2015 và định hướng tới năm 2020 để hình thành mạng lưới đô thị và các khu sản xuất tập trung, tạo động lực phát triển kinh tế - xã hội… Đã xây dựng khá đồng bộ cơ sở hạ tầng, tạo ra diện mạo mới cho các đô thị, đặc biệt là  KĐTM Lào Cai - Cam Đường. Trong 5 năm qua, tổng vốn đầu tư toàn xã hội của Lào Cai ước đạt 23 nghìn tỷ đồng, bình quân hàng năm tăng 23,4%. Môi trường đầu tư, kinh doanh được cải thiện; năm 2009, chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) của Lào Cai đứng thứ 3 toàn quốc. Đã chấp thuận đầu tư 176 dự án đầu tư với tổng vốn đăng ký 18.409 tỷ đồng, đã có trên 1.700 doanh nghiệp đăng ký và hoạt động trên địa bàn, tăng gần 2 lần so năm 2005 với tổng số vốn đăng ký 10.338 tỷ đồng, gấp hơn 7 lần so với năm 2005.

Thương mại phát triển mạnh, đã thu hút nhiều thành phần kinh tế đầu tư kinh doanh với hơn 8.600 cửa hàng kinh doanh thương mại dịch vụ. Tốc độ tăng trưởng tổng mức lưu chuyển bán lẻ và doanh thu dịch vụ xã hội bình quân đạt 28,4% năm. Trên địa bàn tỉnh đã thu hút trên 540 đơn vị doanh nghiệp tham gia kinh doanh xuất, nhập khẩu. Kim ngạch xuất, nhập khẩu theo xu hướng tăng lên hàng năm; năm 2010, dự ước đạt 800 triệu USD, tăng 86% so với năm 2005. Hoạt động du lịch có bước phát triển với nhiều loại hình. Du lịch sinh thái, du lịch văn hóa thôn, bản từng bước được đầu tư, mở rộng. Lượng du khách đến Lào Cai tăng lên hàng năm. Năm 2010, tổng lượt khách 820 nghìn người, tăng 64% so với năm 2005. Thu ngân sách Nhà nước trên địa bàn tỉnh tăng mạnh, mức tăng bình quân trong 5 năm qua là 20,5%. Riêng năm 2010, dự kiến thu ngân sách đạt 1.770 tỷ đồng, vượt 47,5% so với mục tiêu đề ra.

Công tác giáo dục - đào tạo được triển khai thực hiện có hiệu quả. Quy mô, mạng lưới trường, lớp ổn định và phát triển. Loại hình trường nội trú, bán trú dân nuôi ở vùng cao phát triển đem lại hiệu quả thiết thực. Tỷ lệ huy động học sinh đến lớp tăng lên hàng năm, hệ thống y tế không ngừng được củng cố, phát triển từ tuyến tỉnh đến cơ sở cả về cơ sở vật chất đến đội ngũ cán bộ làm công tác y tế, đã đạt tỷ lệ 7 bác sỹ và 0,7 dược sỹ/vạn dân. 100% xã có trạm y tế; 92,3% thôn, bản có nhân viên y tế; 75% số xã, phường, thị trấn đạt chuẩn quốc gia về y tế đã nâng cao năng lực bảo vệ, chăm sóc sức khoẻ nhân dân. Dịch bệnh được kiểm soát. Trẻ em dưới 1 tuổi được tiêm chủng đầy đủ đạt 97%; tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng giảm còn 27,5%. Đời sống của nhân dân từ thành thị đến nông thôn được cải thiện đáng kể, số hộ đói, nghèo giảm từ 43,1% (năm 2005) xuống còn 16,8%. Quốc phòng - an ninh, trật tự an toàn xã hội được đảm bảo.

Có được kết quả đáng phấn khởi trên trước hết là nhờ sự lãnh đạo chặt chẽ, toàn diện của các cấp ủy Đảng. Với quan điểm công tác xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt, phát triển kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm, Đảng bộ tỉnh Lào Cai luôn luôn coi trọng công tác xây dựng Đảng, nâng cao sức chiến đấu, năng lực lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng, nâng cao tính tiên phong gương mẫu của đảng viên để lãnh đạo thực hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội. Công tác giáo dục lý luận chính trị tư tưởng luôn được coi trọng, tạo ra chuyển biến về nhận thức và hành động, đưa các nghị quyết của Đảng vào cuộc sống. Công tác tổ chức xây dựng Đảng có nhiều chuyển biến tích cực. Các tổ chức cơ sở Đảng đã phát huy vai trò hạt nhân chính trị ở cơ sở, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của nhiều tổ chức cơ sở Đảng được nâng lên... Công tác phát triển đảng gắn với xây dựng tổ chức đảng, trong đó, chú trọng phát triển đảng viên là người dân tộc thiểu số, là nữ và tuổi trẻ ở những thôn, bản, đầu mối chưa có đảng viên. Trong nhiệm kỳ, đã kết nạp 7.501 đảng viên mới, trong đó có 2.584 là người dân tộc thiểu số; đưa tổng số đảng viên của Đảng bộ lên 29.136 đồng chí. Cơ bản xoá được thôn, bản, đầu mối chưa có đảng viên. Từ 562 tổ chức cơ sở Đảng ở đầu nhiệm kỳ, đến nay tăng lên 636 tổ chức. Hàng năm, có trên 85% tổ chức cơ sở Đảng đạt trong sạch, vững mạnh và hoàn thành tốt nhiệm vụ; trong đó, trên 10% đạt danh hiệu “Trong sạch, vững mạnh” tiêu biểu và trên 70% đảng viên đủ tư cách, hoàn thành tốt nhiệm vụ.

Trong bối cảnh có nhiều khó khăn, thử thách, nhiệm vụ đặt ra cho nhiệm kỳ 2011 - 2015 là rất to lớn, nặng nề nhưng cũng hết sức vẻ vang. Toàn Đảng, toàn quân và nhân dân các dân tộc tỉnh Lao Cai quyết tâm phát huy truyền thống và thành tựu đã đạt được trong những năm qua, đoàn kết nhất trí, nêu cao tinh thần trách nhiệm, vượt qua khó khăn thử thách, tranh thủ thời cơ thuận lợi, huy động và sử dụng hiệu quả mọi nguồn lực, phấn đấu thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ chính trị Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XIV đề ra, xây dựng tỉnh Lào Cai phát triển nhanh và bền vững, thành trung tâm giao lưu kinh tế, văn hoá trong khu vực Tây Bắc của Tổ quốc.

Một số chỉ tiêu chủ yếu của kế hoạch 5 năm 2010 - 2015

- Tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trong tỉnh (GDP) bình quân hàng năm: 14%; trong đó, nông, lâm nghiệp và thuỷ sản tăng 6%; công nghiệp - xây dựng tăng 18,6% và dịch vụ tăng 14%.

- Cơ cấu các ngành kinh tế trong GDP: Nông, lâm nghiệp và thuỷ sản 24,8%; công nghiệp - xây dựng 41,1%; dịch vụ 34,1%.

- Tổng sản lượng lương thực có hạt đạt trên 245 nghìn tấn.

-  Xây dựng 35 xã đạt chuẩn Bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới.

- Giá trị sản xuất công nghiệp đạt 5.100 tỷ đồng, tốc độ tăng trưởng bình quân 5 năm đạt trên 18%.

- Giá trị kim ngạch XNK trên địa bàn đạt khoảng 1,78 tỷ USD, tốc độ tăng bình quân 5 năm đạt 22,3%.

- Thu ngân sách nhà nước trên địa bàn: 3.500 tỷ đồng, bình quân hàng năm tăng 16,2%.

- Hoàn thành phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi vào năm 2015.

- Tạo việc làm mới cho 50.000 lao động.

- Tỷ lệ hộ nghèo theo tiêu chí mới giảm từ 3 - 5%/năm;

- Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên giảm còn 1,3%;

- Tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng giảm còn < 20%;

- 82% số hộ đạt tiêu chuẩn gia đình văn hoá; 60% số thôn, bản, tổ dân phố đạt tiêu chuẩn văn hoá; 95% số cơ quan, trường học đạt tiêu chuẩn văn hoá.

- 80% tổ chức cơ sở đảng đạt trong sạch, vững mạnh; trong đó, 15% đạt trong sạch, vững mạnh tiêu biểu;

- 80% tổ chức chính quyền cơ sở đạt loại khá trở lên.

Linh Khang

Theo baoxaydung.com.vn

Từ khóa:
Cùng chuyên mục
Xem thêm
...

Tin bài cuối cùng

Không còn dữ liệu để load