Chủ nhật 13/10/2024 23:21 24h qua English RSS
Hotline: 094 540 6866
Trang chủ / Thời sự /

Kỳ họp thứ 3, Quốc hội khóa XIV: Quốc hội bàn về việc sửa Luật Quy hoạch

10:28 | 26/05/2017

(Xây dựng) – Sáng nay 26/5, Kỳ họp thứ 3, Quốc hội khóa XIV làm việc tại hội trường nghe trình bày Báo cáo giải trình tiếp thu, chỉnh lý dự án Luật Quy hoạch. Sau đó Quốc hội thảo luận ở hội trường về một số nội dung còn ý kiến khác nhau của dự án Luật quy hoạch.

Trước khi thảo luận, Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội Vũ Hồng Thanh trình bày Báo cáo giải trình tiếp thu, chỉnh lý dự án Luật quy hoạch. Sau đó Quốc hội thảo luận ở hội trường về một số nội dung còn ý kiến khác nhau của dự án Luật quy hoạch. Cơ quan trình và cơ quan chủ trì thẩm tra phối hợp báo cáo, làm rõ vấn đề đại biểu Quốc hội nêu.

Theo Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội Vũ Hồng Thanh: Tại kỳ họp thứ 2 Quốc hội khóa XIV, Quốc hội đã cho ý kiến tại tổ và hội trường về dự án Luật quy hoạch. Trên cơ sở ý kiến của các vị đại biểu Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội đã chỉ đạo Cơ quan chủ trì thẩm tra, Cơ quan soạn thảo và các cơ quan hữu quan nghiên cứu tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật, trình xin ý kiến Ủy ban Thường vụ Quốc hội tại Phiên họp tháng 1, Phiên họp tháng 3 và Phiên họp tháng 4 năm 2017. Thực hiện chỉ đạo của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Cơ quan chủ trì thẩm tra đã tổ chức làm việc riêng với 8 Bộ còn có ý kiến khác với dự thảo Luật, chủ trì đối thoại liên bộ giữa Cơ quan soạn thảo với các Bộ hữu quan, làm việc riêng giữa Cơ quan chủ trì thẩm tra và Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ trưởng Bộ Xây dựng; tổ chức các cuộc hội thảo tại 3 miền lấy ý kiến các đoàn Đại biểu Quốc hội và các chuyên gia, gửi xin ý kiến các Đoàn đại biểu Quốc hội, lấy ý kiến tại Hội nghị đại biểu Quốc hội chuyên trách. Dự thảo Luật đã được tiếp thu và sắp xếp lại bố cục cho hợp lý hơn gồm 6 Chương và 69 Điều.


Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội Vũ Hồng Thanh trình bày Báo cáo giải trình tiếp thu, chỉnh lý dự án Luật quy hoạch.

Tại báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật quy hoạch của Ủy ban Thường vụ Quốc hội nêu rõ: Những nguyên tắc cơ bản trong hoạt động quy hoạch (Điều 4) và nguyên tắc lập quy hoạch (Điều 22). Một số ý kiến đề nghị bổ sung một số nguyên tắc sau: Đảm bảo tính khả thi, tính đồng bộ; tính dự báo; tính ổn định, bảo vệ môi trường, tính nhân dân, tiết kiệm, tính thứ bậc, ... tại Điều 4 và Điều 21 (cũ) của dự thảo Luật; có ý kiến đề nghị gộp Điều 4 và Điều 21 (cũ) thành một Điều quy định chung về nguyên tắc; có ý kiến đề nghị bổ sung căn cứ lập quy hoạch.

Ủy ban thường vụ Quốc hội cho rằng: Việc quy định cụ thể hơn các nguyên tắc cơ bản trong hoạt động quy hoạch cũng như nguyên tắc lập quy hoạch sẽ khắc phục được những hạn chế của công tác quy hoạch hiện nay, đó là thiếu tính liên kết, đồng bộ, mâu thuẫn, chồng chéo, không phù hợp với nguồn lực. Vì vậy, tiếp thu ý kiến của các đại biểu Quốc hội, một số nguyên tắc đã được xem xét, bổ sung tại Điều 4 về nguyên tắc cơ bản trong hoạt động quy hoạch và Điều 21. Đồng thời xin gộp Điều 20 cũ về nội dung quy hoạch với Điều 21 (cũ) thành Điều 22 (mới) về yêu cầu về nội dung và nguyên tắc lập quy hoạch, bổ sung Điều 21 (mới) về căn cứ lập quy hoạch để bảo đảm tính logic của dự thảo Luật.

Kinh phí thực hiện quy hoạch

Về kinh phí thực hiện quy hoạch (Điều 7 cũ – Điều 9 mới). Một số ý kiến đề nghị bổ sung quy định minh bạch về cơ chế sử dụng, cơ chế quản lý và các chính sách cụ thể; đề nghị quy định rõ kinh phí cho quy hoạch của các cấp; đề nghị quy định quy hoạch do nhà nước lập và do ngân sách nhà nước chi trả nên cân nhắc, tính toán đưa vào đầu tư công trên cơ sở kế hoạch đầu tư công trung hạn được cấp có thẩm quyền phê duyệt; rà soát lại quy định tại khoản 2 Điều 7 cũ về khuyến khích tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước tài trợ kinh phí cho các hoạt động quy hoạch.

Ủy ban thường vụ Quốc hội xin tiếp thu và thể hiện như trong Điều 9 (Điều 7 cũ) của dự thảo Luật, theo đó chi phí lập, thẩm định, quyết định hoặc phê duyệt, công bố và điều chỉnh quy hoạch được sử dụng từ vốn đầu tư công theo quy định của pháp luật về đầu tư công, chi phí giám sát, đánh giá, kiểm tra, thanh tra quy hoạch sử dụng nguồn kinh phí thường xuyên theo quy định của pháp luật về ngân sách nhà nước. Việc quy định như vậy không trái với Điều 5 Luật đầu tư công quy định về lĩnh vực đầu tư công. Đồng thời, cần xem xét điều chỉnh bổ sung kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2017 - 2020 cho phù hợp.

Ủy ban thường vụ Quốc hội cũng xin tiếp thu và không quy định riêng về khuyến khích các tổ chức, cá nhân tài trợ kinh phí cho hoạt động quy hoạch như tại khoản 2 Điều 7 (cũ) mà gộp vào khoản 3 Điều 10 về chính sách của nhà nước về hoạt động quy hoạch, theo đó Nhà nước ban hành cơ chế, chính sách khuyến khích tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài hỗ trợ nguồn lực cho hoạt động quy hoạch và vẫn đảm bảo khách quan, công khai, minh bạch như nguyên tắc chung quy định tại Điều 4.

Hợp tác quốc tế trong hoạt động quy hoạch

Đối với hợp tác quốc tế trong hoạt động quy hoạch, Ủy ban thường vụ Quốc hội xin tiếp thu và bổ sung Điều 12 mới về hợp tác quốc tế trong hoạt động quy hoạch như tại dự thảo Luật, theo đó hợp tác quốc tế trong hoạt động quy hoạch nhằm bảo đảm hoạt động quy hoạch đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế, bảo đảm các nguyên tắc cơ bản trong hoạt động quy hoạch quy định tại Điều 4 của Luật. Các hoạt động chủ yếu trong hợp tác quốc tế trong hoạt động quy hoạch gồm chia sẻ kinh nghiệm, ứng dụng khoa học và công nghệ mới, đào tạo và thu hút nguồn nhân lực cho hoạt động quy hoạch. Hợp tác quốc tế trong hoạt động quy hoạch phải phù hợp với đường lối và chính sách đối ngoại của Việt Nam; đảm bảo nguyên tắc hòa bình, hợp tác, hữu nghị cùng phát triển trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, cùng có lợi, tôn trọng pháp luật Việt Nam và các điều ước quốc tế có liên quan mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.

Hệ thống quy hoạch quốc gia

Về hệ thống quy hoạch quốc gia (Điều 5 mới – Điều 12 cũ). Nhiều ý kiến cho rằng cần quy định Chính phủ trình Quốc hội phê duyệt quy hoạch tổng thể quốc gia, quy hoạch không gian biển quốc gia và quy hoạch sử dụng đất cấp quốc gia vì đây là những quy hoạch đặc biệt quan trọng, ảnh hưởng đến sự phát triển chung của cả nước. Ủy ban thường vụ Quốc hội nhận thấy các ý kiến này là hợp lý, phù hợp với quy định về nhiệm vụ và quyền hạn của Quốc hội tại khoản 3 Điều 70 Hiến pháp năm 2013 và khoản 1 Điều 7 Luật tổ chức Quốc hội. Mặt khác, quy định này cũng phù hợp với thẩm quyền của Quốc hội đối với việc quyết định ngân sách Nhà nước để tổ chức thực hiện quy hoạch theo quy định tại Điều 19 Luật ngân sách Nhà nước và quy định về thẩm quyền quyết định chủ trương các chương trình, dự án đầu tư công của Quốc hội tại Luật đầu tư công.

Ngoài ra, đối với ý kiến cho rằng không cần thiết lập quy hoạch tổng thể quốc gia vì đã có chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Ủy ban thường vụ Quốc hội xin báo cáo như sau: Công cụ để hoạch định phát triển ở Việt Nam bao gồm: Chiến lược - Quy hoạch - Kế hoạch. Quy hoạch giữ vai trò kết nối giữa chiến lược và kế hoạch, đồng thời để cụ thể hóa mục tiêu, định hướng phát triển của Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Sự khác biệt của quy hoạch so với chiến lược và kế hoạch chính là tổ chức không gian phát triển trên lãnh thổ quốc gia.

Tuy nhiên, ở Việt Nam đã có chiến lược và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội cấp quốc gia nhưng không có quy hoạch tổng thể quốc gia đã dẫn tới việc hoạch định phát triển không có sự cân đối chung, thiếu trọng tâm, trọng điểm. Đây là nguyên nhân chính làm lãng phí hoặc phân tán nguồn lực, giảm năng lực cạnh tranh của quốc gia. Do vậy, cần có quy hoạch tổng thể quốc gia để tạo lập không gian phát triển thống nhất, khắc phục sự mâu thuẫn giữa quy hoạch vùng và quy hoạch cấp tỉnh về không gian phát triển, về mục tiêu, công cụ chính sách, phân bổ nguồn lực, lựa chọn dự án, chương trình ưu tiên đầu tư, góp phần tạo động lực cho phát triển kinh tế - xã hội và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia.

Một số ý kiến đề nghị nghiên cứu, bổ sung quy hoạch vùng trời thành 1 loại quy hoạch riêng trong hệ thống quy hoạch hoặc thành một khoản của quy hoạch tổng thể quốc gia.

Theo Ủy ban thường vụ Quốc hội, qua nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế và tham khảo ý kiến chuyên gia thì hiện nay chưa có quốc gia nào xây dựng quy hoạch riêng về vùng trời. Các hoạt động quy hoạch hiện nay là việc phân bổ và sắp xếp không gian bao gồm cả trên mặt đất, dưới lòng đất và trên vùng trời tới một độ cao nhất định phù hợp với các điều ước quốc tế. Do vậy, xin bổ sung điểm g khoản 2 Điều 23 về quy hoạch tổng thể quốc gia về “g) Định hướng khai thác và sử dụng vùng trời;”. Chính phủ có trách nhiệm hướng dẫn chi tiết nội dung quy định này.

Một số ý kiến cho rằng cần nghiên cứu điều chỉnh danh mục quy hoạch ngành quốc gia. Có ý kiến đề nghị không quy hoạch điện mà phải quy hoạch hệ thống năng lượng trong đó điện chỉ là một yếu tố của quy hoạch hệ thống năng lượng. Nhiều ý kiến nhất trí giao Chính phủ rà soát danh mục các ngành quốc gia lập quy hoạch tại Phụ lục 1 của Luật và trình Ủy ban thường vụ Quốc hội xem xét, quyết định; ý kiến khác đề nghị giữ quy định tại dự thảo Luật trình Quốc hội tại kỳ họp thứ 2 (tháng 10/2016), theo đó giao Chính phủ quyết định các quy hoạch ngành quốc gia lập quy hoạch khác (mục IV của Phụ lục 1). Có ý kiến đề nghị quy định về quy hoạch xây dựng, quy hoạch khu chức năng đặc thù trong hệ thống quy hoạch. Có ý kiến đề nghị đối với các quy hoạch đặc thù như quy hoạch xây dựng cần quy định theo hướng có sự kế thừa, bảo đảm không có sự xáo trộn không cần thiết.

Ủy ban thường vụ Quốc hội đã chỉ đạo các cơ quan có liên quan tổ chức làm việc với các Bộ, ngành về danh mục các ngành quốc gia lập quy hoạch tại Phụ lục 1, trên cơ sở đó đã tiếp thu, rà soát, chỉnh lý danh mục quy hoạch ngành quốc gia để đảm bảo tính liên kết, đồng bộ và khả thi trong việc lập, thực hiện quy hoạch và phát triển của các ngành; đồng thời đã chỉnh lý dự thảo Luật theo hướng tích hợp những nội dung quy hoạch ngành vào quy hoạch tổng thể quốc gia, quy hoạch không gian biển quốc gia, quy hoạch vùng, quy hoạch tỉnh và các Bộ quản lý chuyên ngành có trách nhiệm triển khai thực hiện (tại các Điều 23, 24, 27 và 28); bổ sung và điều chỉnh một số quy hoạch trong Phụ lục 1 cho phù hợp.

Riêng Quy hoạch điện lực mang tính hệ thống từ khâu phát điện, truyền tải và phân phối điện cả nước, là hệ thống hạ tầng kỹ thuật phục vụ phát triển kinh tế - xã hội; mức độ chi tiết, tính chất quy mô của các dự án đầu tư cũng khác nhau, do đó đề nghị giữ nguyên Quy hoạch điện lực (mục 8) cùng với Quy hoạch năng lượng cấp quốc gia (mục 7). Đồng thời, khoản 3 Điều 22 đã quy định nguyên tắc bảo đảm sự liên kết, tính đồng bộ và hệ thống giữa các ngành và các vùng trong cả nước, giữa các địa phương trong vùng để hạn chế tình trạng không thống nhất, chồng chéo giữa các quy hoạch.


Sáng nay Quốc hội làm việc tại hội trường nghe trình bày Báo cáo giải trình tiếp thu, chỉnh lý dự án Luật Quy hoạch.

Về thẩm quyền quyết định bổ sung các quy hoạch ngành quốc gia tại Phụ lục 1, để bảo đảm thống nhất trong thẩm quyền của Quốc hội nhưng vẫn linh hoạt, kịp thời trong điều hành, xin tiếp thu, chỉnh lý khoản 2 Điều 26 theo hướng căn cứ điều kiện kinh tế - xã hội và yêu cầu quản lý nhà nước trong từng thời kỳ, Chính phủ rà soát danh mục các ngành quốc gia lập quy hoạch và trình Ủy ban thường vụ Quốc hội xem xét, quyết định.

Quy hoạch xây dựng và quy hoạch khu chức năng đặc thù

Đối với quy hoạch xây dựng và quy hoạch khu chức năng đặc thù, hiện nay theo quy định tại Điều 13 của Luật xây dựng gồm 4 nội dung sau: Quy hoạch vùng, Quy hoạch đô thị, Quy hoạch khu chức năng đặc thù và Quy hoạch nông thôn. Trên cơ sở tham khảo ý kiến của các bộ hữu quan, ý kiến của Chính phủ tại Tờ trình số 87/TTr-CP ngày 17/3/2017 về dự án Luật quy hoạch và để bảo đảm tính hệ thống, đồng bộ, dự thảo Luật đã được tiếp thu, chỉnh lý theo hướng: hệ thống đô thị và nông thôn quốc gia vẫn được Bộ quản lý chuyên ngành lập và tích hợp vào nội dung của quy hoạch tổng thể quốc gia (tại điểm h khoản 2, Điều 23); các quy hoạch xây dựng vùng liên tỉnh, quy hoạch khu chức năng đặc thù cấp quốc gia được lập và tích hợp vào nội dung quy hoạch vùng (tại điểm d và đ khoản 2 Điều 27).


Thảo luận tại Hội trường sáng 26/5, nhiều Đại biểu đánh giá Luật Quy hoạch là dự luật quan trọng, có ảnh hưởng lớn đến phát triển kinh tế xã hội, do đó cần phải được đánh giá, xây dựng một cách nghiêm túc.

Các quy hoạch xây dựng vùng tỉnh, quy hoạch khu chức năng đặc thù cấp tỉnh bao gồm định hướng phát triển quy hoạch đô thị, nông thôn; định hướng phát triển hệ thống khu kinh tế, khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu du lịch, khu nghiên cứu đào tạo thể dục thể thao; khu bảo tồn đã được xác định trong quy hoạch cấp quốc gia, quy hoạch vùng trên địa bàn tỉnh; định hướng phát triển các cụm công nghiệp. Định hướng tổ chức lãnh thổ khu vực nông thôn, phát triển các vùng sản xuất nông nghiệp tập trung; định hướng phân bố hệ thống điểm dân cư; xác định khu vực quốc phòng, an ninh; định hướng phát triển những khu vực có điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội khó khăn, những khu vực có vai trò động lực…được lập và tích hợp vào nội dung quy hoạch tỉnh (tại khoản 2 Điều 28).

Bên cạnh đó, bổ sung quy định việc lập và thực hiện quy hoạch xây dựng, quy hoạch sử dụng đất quy hoạch chi tiết các khu chức năng đặc thù cấp vùng, cấp tỉnh, các khu du lịch, khu di tích văn hóa... sẽ được thực hiện theo quy định của pháp luật về xây dựng, pháp luật về đất đai và pháp luật có liên quan tại các khoản 3 Điều 23, khoản 3 Điều 24, khoản 6 Điều 26, khoản 3 Điều 27 và khoản 3 Điều 28 của dự thảo Luật quy hoạch.

Đối với những quy hoạch ngành sẽ được lập và tích hợp vào các quy hoạch quy định trong dự thảo Luật, Điều 68 đã quy định theo hướng đối với các quy hoạch được tích hợp vào các quy hoạch quy định tại các điểm a, b và c Khoản 1 Điều 5 của dự thảo Luật thì được thực hiện đến hết ngày 31/12/2020 và giao Chính phủ ban hành danh mục, hướng dẫn cụ thể đối với các quy hoạch này. Quy hoạch đô thị và quy hoạch nông thôn (điểm d khoản 1 Điều 5) vẫn thực hiện theo pháp luật về quy hoạch đô thị và pháp luật về xây dựng, bảo đảm tính kế thừa và tránh sự xáo trộn khi triển khai thực hiện. Ngoài ra, khoản 2 Điều 21 về căn cứ lập quy hoạch cũng quy định phải dựa vào quy hoạch thời kỳ trước để kế thừa những nội dung còn phù hợp.

Cũng tại báo cáo giải trình cho rằng: Đa số ý kiến đồng tình với chủ trương bỏ quy hoạch sản phẩm, tuy nhiên cần đưa ra phương án quản lý đối với những ngành sản phẩm khi mà các ngành này trong thời gian tới sẽ không còn quản lý bằng quy hoạch. Có ý kiến đề nghị cần tiếp tục lập quy hoạch sản phẩm vì nếu bỏ quy hoạch sản phẩm thì sẽ gặp khó khăn trong quản lý nhà nước, ví dụ trong ngành nông nghiệp có những quy hoạch sản phẩm rất quan trọng cần được giữ lại vì nếu không có định hướng quy hoạch thì sẽ xảy ra hiện tượng phát triển sản phẩm tràn lan.

Ủy ban thường vụ Quốc hội xin báo cáo như sau: Các quy hoạch ngành, lĩnh vực, sản phẩm chủ yếu tuy có những đóng góp nhất định trong phát triển kinh tế - xã hội, nhưng bên cạnh đó cũng còn nhiều quy hoạch có sự chồng chéo, mâu thuẫn và thiếu tính liên kết với nhau, gây lãng phí cho xã hội. Trong khi đó, nguyên lý quy hoạch là phân bổ nguồn lực hiện có trong tầm kiểm soát và quản lý của nhà nước. Đối với việc đầu tư phát triển sản phẩm phụ thuộc vào nguồn lực tài chính của nhà đầu tư trong xã hội, ngoài ý muốn chủ quan của cơ quan quản lý nhà nước nên không thể ấn định lượng hàng hóa sản phẩm bằng quy hoạch trong nền kinh tế thị trường.

Vì vậy, Ủy ban thường vụ Quốc hội đề xuất lập một số quy hoạch kết cấu hạ tầng và quy hoạch sử dụng tài nguyên. Đối với các sản phẩm có gắn với việc sử dụng nguồn tài nguyên sẽ không lập quy hoạch sản phẩm mà chỉ lập quy hoạch sử dụng nguồn tài nguyên (ví dụ đối với sản phẩm xi măng sẽ không lập quy hoạch sản phẩm xi măng, chỉ lập quy hoạch nguồn tài nguyên đá vôi). Đối với các sản phẩm cụ thể, việc quản lý đối với những ngành sản phẩm trong thời gian tới sẽ không bằng quy hoạch nữa mà theo hướng sử dụng các điều kiện, tiêu chuẩn kỹ thuật về thương mại, vệ sinh an toàn thực phẩm, bảo vệ môi trường và đặc biệt là nhiệm vụ cung cấp thông tin, tín hiệu, xu hướng thị trường… Các nội dung này sẽ do các ngành tự xác định căn cứ vào nhu cầu quản lý của mình và sẽ được bổ sung trong quá trình sửa đổi các quy định hiện hành về quy hoạch.

Về Quy hoạch vùng, có ý kiến đề nghị cần làm rõ quy hoạch vùng gồm những loại vùng nào và có phụ lục kèm theo những vùng cần lập quy hoạch. Có ý kiến cho rằng nếu lấy khung quy hoạch vùng cũng giống như một địa giới hành chính thì lãng phí và không cần thiết, đề nghị nghiên cứu thêm chỉ đưa một số lĩnh vực đặc thù vào quy hoạch.

Ủy ban thường vụ Quốc hội xin báo cáo như sau: Khoản 3 Điều 27 của Dự thảo Luật quy định về quy hoạch vùng đã quy định giao Chính phủ quy định chi tiết về các vùng lập quy hoạch. Ngoài ra, nội dung của quy hoạch vùng chủ yếu giải quyết các vấn đề có tính liên vùng đặc thù, không phải quy hoạch mang tính địa giới hành chính.

Về quy hoạch tỉnh, một số ý kiến cho rằng quy hoạch tỉnh cần phải xin ý kiến của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh trước khi trình cấp có thẩm quyền phê duyệt. Có ý kiến đề nghị Ủy ban nhân dân tỉnh chỉ xin Hội đồng nhân dân tỉnh chủ trương lập quy hoạch tỉnh, sau khi đã được phê duyệt chủ trương thì Ủy ban nhân dân tỉnh lập và trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Có ý kiến đề nghị quy hoạch tỉnh cần do Hội đồng nhân dân cấp tỉnh phê duyệt.

Ủy ban Thường vụ Quốc hội xin báo cáo như sau: Qua nghiên cứu và rà soát các quy định của pháp luật về tổ chức chính quyền địa phương, tổ chức Chính phủ, dự thảo Luật đã quy định thủ tục như sau: sau khi hoàn thiện nội dung quy hoạch tỉnh, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trình Hội đồng nhân dân cùng cấp cho ý kiến và quyết định thông qua nghị quyết cho phép trình Thủ tướng phê duyệt quy hoạch tỉnh tại khoản 4 Điều 16, Điều 65 và Điều 66 của dự thảo Luật. Quy định như vậy vừa đảm bảo được việc thực hiện các nhiệm vụ của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh đối với các vấn đề kinh tế - xã hội của địa phương vừa đảm bảo phù hợp với các quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Thủ tướng Chính phủ và các quy định về ban hành văn bản quy phạm pháp luật.

Về quy hoạch đô thị, nông thôn, một số ý kiến đề nghị quy định nội dung quy hoạch đô thị và nông thôn ngay tại Luật này. Có ý kiến đề nghị bổ sung quy hoạch sử dụng đất cấp huyện tại khoản 4 Điều 12 (cũ) để làm căn cứ thực hiện quản lý nhà nước trong lĩnh vực này.

Ủy ban thường vụ Quốc hội xin báo cáo như sau: quy hoạch đô thị và nông thôn là nhằm tổ chức, sắp xếp không gian sống, hoạt động phát triển cho một đô thị, điểm dân cư cụ thể; có những yếu tố, yêu cầu về văn hóa, kỹ thuật, cơ sở hạ tầng kỹ thuật khác nhau dựa trên các tiêu chuẩn, quy chuẩn để thiết lập nên không gian phục vụ đời sống. Việc hình thành các đô thị xuất phát từ phát triển kinh tế và nhu cầu khách quan của xã hội, chính vì vậy, việc lập quy hoạch đô thị, nông thôn đã được quy định ở luật riêng (Luật quy hoạch đô thị, Luật xây dựng). Đồng thời, để đảm bảo yêu cầu quản lý nhà nước về đất đai, Điều 25 của dự thảo Luật được tiếp thu, chỉnh lý theo hướng quy định quy hoạch sử dụng đất quốc gia được lập riêng và tách khỏi quy hoạch các ngành quốc gia; đồng thời chỉnh lý dự thảo Luật theo hướng thực hiện phân bổ và khoanh vùng đất đai theo khu chức năng và theo loại đất đến từng đơn vị hành chính cấp huyện tại điểm l khoản 2 Điều 28. Ngoài ra, tiếp thu ý kiến của đại biểu Quốc hội, khoản 4 Điều 6 của dự thảo Luật cũng quy định rõ việc lập, thẩm định, phê duyệt quy hoạch đô thị, quy hoạch nông thôn thực hiện theo quy định của pháp luật về quy hoạch đô thị và pháp luật về xây dựng, đồng thời phải tuân thủ các nguyên tắc cơ bản của hoạt động quy hoạch được quy định trong dự thảo Luật quy hoạch như: công bố quy hoạch, cung cấp thông tin về quy hoạch, việc lấy ý kiến, lựa chọn tư vấn lập quy hoạch...

 

Mối quan hệ giữa các loại quy hoạch trong hệ thống quy hoạch quốc gia

Đối với mối quan hệ giữa các loại quy hoạch trong hệ thống quy hoạch quốc gia và thẩm quyền lập, thẩm định, quyết định hoặc phê duyệt quy hoạch. Có ý kiến đề nghị làm rõ mối quan hệ giữa các loại quy hoạch theo thứ bậc; mối quan hệ giữa các loại quy hoạch cùng cấp.

Ủy ban thường vụ Quốc hội xin tiếp thu, chỉnh lý như quy định tại Điều 5 và Điều 6 dự thảo Luật theo hướng hệ thống quy hoạch gồm 4 cấp theo thứ bậc: (1) quy hoạch cấp quốc gia gồm quy hoạch tổng thể quốc gia, quy hoạch không gian biển, quy hoạch sử dụng đất quốc gia, quy hoạch ngành quốc gia; (2) quy hoạch vùng; (3) quy hoạch tỉnh (4) quy hoạch đô thị, quy hoạch nông thôn. Bổ sung quy hoạch đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt do Quốc hội quy định tại Khoản 2 Điều 5. Đồng thời, xin tiếp thu thể hiện các nội dung liên quan đến thẩm quyền Quốc hội trong thẩm định, quyết định, điều chỉnh các loại quy hoạch tại Điều 31 (Hồ sơ thẩm định), Điều 32 (Nội dung thẩm định), Điều 33 (Báo cáo thẩm định), Điều 35 (Hồ sơ trình quyết định hoặc phê duyệt), Điều 36 (Thủ tục thẩm tra quy hoạch tổng thể quốc gia, quy hoạch không gian biển quốc gia, quy hoạch sử dụng đất quốc gia)...

Quy hoạch tổng thể quốc gia, quy hoạch không gian biển quốc gia và quy hoạch sử dụng đất cấp quốc gia sẽ do Chính phủ tổ chức lập và trình Quốc hội quyết định. Việc thẩm định các quy hoạch này sẽ được giao cho Hội đồng thẩm định nhà nước, gồm đại diện của các bộ, ngành. Bộ Kế hoạch và Đầu tư sẽ là cơ quan thường trực hội đồng thẩm định quy hoạch tổng thể quốc gia, quy hoạch vùng. Bộ Tài nguyên và Môi trường là cơ quan thường trực Hội đồng thẩm định quy hoạch không gian biển quốc gia, quy hoạch sử dụng đất quốc gia, quy hoạch sử dụng đất quốc phòng cấp quốc gia, quy hoạch sử dụng đất an ninh cấp quốc gia.

Ủy ban thường vụ Quốc hội cũng xin tiếp thu và chỉnh lý Điều 6 về mối quan hệ giữa các loại quy hoạch, làm rõ hơn việc xử lý trường hợp có sự mâu thuẫn giữa các quy hoạch cùng cấp theo hướng: nếu các quy hoạch ngành quốc gia mâu thuẫn với nhau thì phải điều chỉnh và thực hiện theo quy hoạch tổng thể quốc gia; nếu các quy hoạch vùng và quy hoạch tỉnh mâu thuẫn với quy hoạch ngành quốc gia thì phải điều chỉnh và thực hiện theo quy hoạch ngành quốc gia và quy hoạch tổng thể quốc gia; nếu các quy hoạch vùng mâu thuẫn với nhau và quy hoạch tỉnh mâu thuẫn với nhau thì phải điều chỉnh và thực hiện theo quy hoạch cấp trên; trường hợp quy hoạch tỉnh mâu thuẫn với quy hoạch vùng thì phải điều chỉnh và thực hiện theo quy hoạch cấp quốc gia. 

Về việc tích hợp, quy trình phối hợp lập quy hoạch, nội dung quy hoạch và lấy ý kiến về quy hoạch. Có ý kiến đề nghị làm rõ phương pháp tích hợp khi lập quy hoạch, dự thảo Luật đã nêu nhưng chưa rõ trong phân công trách nhiệm. Có ý kiến đề nghị làm rõ cần kết hợp thế nào để xử lý được các tính đặc thù của các lĩnh vực khác nhau trong quy hoạch tổng thể cũng như lồng ghép được những niên hạn của các quy hoạch để đảm bảo tính đồng bộ giữa quy hoạch tổng thể quốc gia với quy hoạch ngành. 

Ủy ban thường vụ Quốc hội xin báo cáo như sau: Hiện nay dự thảo Luật đang được xây dựng theo hướng luật khung, việc triển khai cụ thể giao Chính phủ quy định chi tiết để hướng dẫn thực hiện tại các khoản 3 Điều 23, khoản 3 Điều 24, khoản 3 Điều 25, khoản 6 Điều 26, khoản 3 Điều 27 và khoản 3 Điều 28. Cách thức phối hợp và trách nhiệm của các bộ, ngành và địa phương khi thực hiện lập quy hoạch theo phương pháp tích hợp đã được nêu tại Điều 16 của dự thảo Luật, theo đó, quy hoạch sẽ được xây dựng theo phương pháp từ dưới lên với sự tham gia của các Bộ, ngành, cơ quan, tổ chức, chính quyền địa phương có liên quan nhưng việc phê duyệt quy hoạch sẽ theo phương pháp từ trên xuống để bảo đảm tính hệ thống, đồng bộ, thống nhất. Dự thảo Luật cũng đã quy định việc áp dụng công nghệ thông tin dưới dạng hệ thống dữ liệu địa lý về quy hoạch trong công tác lập quy hoạch. Đây là phương pháp hiện đại, tiên tiến bao gồm tập hợp hệ thống phần cứng, phần mềm máy tính, dữ liệu địa lý và con người được nắm bắt, lưu trữ, cập nhật, điều khiển, phân tích, và hiển thị tất cả các dạng thông tin liên quan trên theo nhiều lớp dạng 3D để thể hiện nội dung quy hoạch được tích hợp.

Quy định điều chỉnh quy hoạch

Liên quan đến quy định điều chỉnh quy hoạch (Mục 2 Chương IV). Một số ý kiến cho rằng cần quy định thẩm quyền quyết định điều chỉnh quy hoạch là cấp cao hơn. Có ý kiến đề nghị quy hoạch tổng thể quốc gia sẽ do Ủy ban thường vụ Quốc hội điều chỉnh sau đó báo cáo với Quốc hội. Một số ý kiến đề nghị cần quy định rõ quy hoạch thực hiện bao nhiêu năm mới được điều chỉnh để tránh việc điều chỉnh quy hoạch một cách tùy tiện.

Ủy ban thường vụ Quốc hội xin báo cáo như sau: dự thảo Luật đã quy định quy hoạch tổng thể quốc gia, quy hoạch không gian biển quốc gia và quy hoạch sử dụng đất quốc gia sẽ do Quốc hội quyết định. Do vậy, không thể quy định thẩm quyền quyết định điều chỉnh quy hoạch cao hơn một cấp. Việc điều chỉnh các quy hoạch này cũng không nên giao Ủy ban thường vụ Quốc hội để phù hợp với thẩm quyền theo quy định. Ngoài ra, dự thảo Luật đã được bổ sung, chỉnh lý về nguyên tắc điều chỉnh tại Điều 50, theo đó cơ quan phê duyệt quy hoạch quyết định việc điều chỉnh quy hoạch thuộc thẩm quyền phê duyệt của mình. Trường hợp quy hoạch cấp dưới cần điều chỉnh nhưng quy hoạch cấp trên chưa điều chỉnh thì cơ quan phê duyệt quy hoạch cấp dưới phải xin chủ trương của cơ quan phê duyệt quy hoạch cấp trên. Điều 52 và Điều 53 quy định về các căn cứ để điều chỉnh và trình tự, thủ tục điều chỉnh quy hoạch. Những quy định này sẽ đảm bảo tránh được việc điều chỉnh quy hoạch một cách tùy tiện. Tuy nhiên, quy hoạch cũng phải đảm bảo tính linh hoạt để đáp ứng được những thay đổi của tình hình kinh tế - xã hội, do đó, Ủy ban thường vụ Quốc hội xin Quốc hội không quy định cụ thể thời hạn điều chỉnh quy hoạch.

Bên cạnh đó, có ý kiến đề nghị bổ sung thêm quy định trường hợp điều chỉnh quy hoạch chỉ mang tính kỹ thuật thì có thể phân cấp cho các địa phương, các Bộ, ngành quản lý ngành, lĩnh vực chịu trách nhiệm điều chỉnh quy hoạch thuộc lĩnh vực phụ trách. Ủy ban thường vụ Quốc hội xin báo cáo như sau: Để tạo sự thống nhất trong chỉ đạo điều hành về đầu mối chịu trách nhiệm, dự thảo Luật quy định nguyên tắc chung cơ quan nào có thẩm quyền phê duyệt quy hoạch thì sẽ có thẩm quyền điều chỉnh quy hoạch. Ngoài ra, rất khó định nghĩa điều chỉnh nào mang tính kỹ thuật, điều chỉnh nào có tính chất quan trọng. Do vậy, Ủy ban Thường vụ Quốc hội xin giữ như dự thảo Luật.

Về nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan, tổ chức và cá nhân trong việc quản lý quy hoạch. Có ý kiến cho rằng cần tách riêng quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ và cần quy định rõ hơn nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan khác.

Ủy ban thường vụ Quốc hội xin tiếp thu và chỉnh lý dự thảo Luật theo hướng quy định cụ thể về nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ. Ngoài ra, do có sự thay đổi về thẩm quyền lập, thẩm định và phê duyệt quy hoạch và thực hiện quy hoạch, công bố, cung cấp thông tin về quy hoạch nên dự thảo Luật đã bổ sung các quy định nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan khác như Quốc hội, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Tài chính. Việc quy định cụ thể nội dung này sẽ đảm bảo sự đồng bộ và liên kết trong quá trình quản lý nhà nước đối với hoạt động quy hoạch.

Quy định chuyển tiếp quy hoạch

Về các quy định chuyển tiếp quy hoạch và xử lý các quy định hiện hành về quy hoạch, hiệu lực thi hành của Luật.  Theo báo cáo của các cơ quan hữu quan được phân công qua rà soát, có 32 Luật cần sửa đổi, bổ sung các Điều liên quan đến quy hoạch để phù hợp với dự án Luật quy hoạch (quy định tại Phụ lục 2 của dự thảo Luật). Để bảo đảm tính khả thi, Ủy ban Thường vụ Quốc hội xin tiếp thu, chỉnh lý khoản 1 Điều 69 của dự thảo Luật theo hướng Luật quy hoạch sẽ có hiệu lực từ ngày 01/01/2019. Đồng thời, các phương án xử lý đối với từng loại quy hoạch được quy định tại Điều 68 như sau:

Đối với quy hoạch được quy định tại các điểm a, b và c khoản 1 Điều 5 của Luật quy hoạch thì thực hiện đến hết thời kỳ quy hoạch; trường hợp nội dung của quy hoạch đó không phù hợp với quy định của Luật này thì phải điều chỉnh theo quy định của Luật quy hoạch.

 Đối với quy hoạch được tích hợp vào các quy hoạch quy định tại Điều 5 của Luật quy hoạch thì được thực hiện đến hết ngày 31/12/2020.

 Các quy hoạch không được tích hợp và không thuộc một trong các quy hoạch quy định tại Điều 5 của Luật quy hoạch hết hiệu lực từ ngày 01/01/2019 trừ các quy hoạch quy định tại khoản 3 Điều 23, khoản 3 Điều 24, khoản 6 Điều 26, khoản 3 Điều 27 và khoản 3 Điều 28 của Luật quy hoạch thì thực hiện theo quy định của pháp luật liên quan.

Cùng với đó, quy định tại khoản 2 Điều 69 giao Chính phủ rà soát, kiến nghị sửa đổi, bổ sung các quy định liên quan đến quy hoạch trong các Luật thuộc danh mục quy định tại Phụ lục 2 của Luật bảo đảm phù hợp với Luật quy hoạch, trình Quốc hội xem xét, quyết định và có hiệu lực chậm nhất từ ngày 01/01/2019. Chính phủ đã họp và có Nghị quyết theo hướng đề nghị Quốc hội bổ sung vào chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2017 và 2018 việc sửa đổi, bổ sung các quy định liên quan đến quy hoạch tại 32 Luật này sau khi Luật quy hoạch được Quốc hội xem xét, thông qua. Việc quy định ngay các nội dung cần sửa đổi liên quan đến quy hoạch tại 32 Luật trong Phụ lục 2 của dự thảo Luật là khó khả thi.

Ngoài ra, để bảo đảm kịp tiến độ chuẩn bị cho việc xây dựng chiến lược phát triển, quy hoạch kinh tế – xã hội của địa phương cho giai đoạn 2021-2030, Ủy ban thường vụ Quốc hội đề xuất Quốc hội ban hành một Nghị quyết riêng để yêu cầu Chính phủ, các bộ, ngành và địa phương được tiến hành các bước chuẩn bị cho công tác quy hoạch theo quy định và chỉ được phê duyệt các quy hoạch phù hợp với quy định của Luật này trong thời gian Luật quy hoạch chưa có hiệu lực.

Thành Nam

Theo

Cùng chuyên mục
Xem thêm
...

Tin bài cuối cùng

Không còn dữ liệu để load