Thứ bảy 20/04/2024 12:20 24h qua English RSS
Hotline: 094 540 6866

Khuyến nghị Việt Nam dừng đầu tư mới các dự án nhiệt điện than

10:54 | 08/11/2019

(Xây dựng) - Đây là một trong những nội dung được đề cập trong Báo cáo triển vọng năng lượng Việt Nam 2019 (EOR19) do Cục Điện lực và năng lượng tái tạo thuộc Bộ Công Thương (Việt Nam) và Cục Năng lượng thuộc Bộ Năng lượng, Hạ tầng kỹ thuật và Khí hậu Đan Mạch phối hợp thực hiện. EOR19 được Bộ Công Thương, Đại sứ quán Đan Mạch, Bộ Năng lượng, Hạ tầng kỹ thuật và Khí hậu Đan Mạch công bố tại Hà Nội, ngày 4/11.

khuyen nghi viet nam dung dau tu moi cac du an nhiet dien than
EOR19 được công bố tại Hà Nội, ngày 4/11.

Vì sao nên dừng đầu tư mới các dự án nhiệt điện than

Báo cáo EOR19 trình bày các kết quả nghiên cứu về các kịch bản phát triển của ngành Năng lượng Việt Nam đến năm 2050; đề xuất lộ trình phát triển năng lượng bền vững, có chi phí thấp, giảm phát thải khí CO2; khuyến nghị chính sách đối với sự phát triển của hệ thống năng lượng Việt Nam trong dài hạn và hỗ trợ cho việc xây dựng Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia 8.

Hiện nay, Việt Nam đang triển khai Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia 7, trong đó các dự án nhiệt điện than đóng vai trò quan trọng. Tuy nhiên, EOR19 đã đề xuất dừng đầu tư vào nhiệt điện than mới sau năm 2025.

EOR19 chứng minh rằng với kịch bản nói trên, Việt Nam có thể giảm 42 triệu tấn than trong tổng tiêu thụ than vào năm 2030; giảm 221 triệu tấn than trong tổng tiêu thụ than vào 2050.

EOR19 chỉ ra rằng: Việc giảm tiêu thụ than cho các nhà máy nhiệt điện sẽ giúp Việt Nam giảm bị phụ thuộc nặng nề vào than nhập khẩu từ năm 2030, vì các nhà máy nhiệt điện than đã xây dựng cho đến nay sẽ tiếp tục vận hành thêm 30 năm nữa. Tất cả các kịch bản đều cho thấy Việt Nam sẽ tăng mạnh nhập khẩu than và dầu vào năm 2030.

Nhưng nếu Việt Nam chú trọng đồng thời phát triển năng lượng tái tạo, sử dụng khí tự nhiên (LNG) và các biện pháp tiết kiệm năng lượng nhằm thay thế hầu hết các nhà máy nhiệt điện than thì sự phụ thuộc vào nhập khẩu nhiên liệu trong tương lai có thể giảm từ 60% xuống 51% vào năm 2030 và từ 71% xuống 58% vào năm 2050.

Theo phân tích của EOR19, việc thực hiện giảm tiêu thụ than sẽ làm tăng khoảng 2% tổng chi phí của hệ thống năng lượng Việt Nam vào năm 2030 và 5% vào năm 2050 nhưng lợi ích mang lại không chỉ là giảm phụ thuộc vào nhập khẩu than mà còn giảm đáng kể phát thải CO2, giảm ô nhiễm không khí và nhất là giảm chi phí y tế cho xã hội.

Các nghiên cứu có uy tín cho thấy: Phát thải từ việc sử dụng than trong ngành Điện làm tăng chi phí y tế cho xã hội. Vào năm 2030, chi phí y tế do ô nhiễm từ sản xuất điện ở Việt Nam ước tính khoảng 7 - 9 tỷ USD. Vào năm 2050, giả thiết mức làm sạch khí thải không tăng, thì chi phí ô nhiễm không khí từ ngành Điện ước tính là 23 tỷ USD/năm, tương đương với hơn 2% GDP. Song chi phí này sẽ giảm xuống còn 7 tỷ USD nếu các biện pháp tiết kiệm năng lượng, sử dụng năng lượng tái tạo và khí tự nhiên hóa lỏng được thực thi.

“Việc sớm dừng đầu tư vào những nhà máy nhiệt điện than mới sẽ làm đảo ngược xu hướng tiêu thụ than đang gia tăng hiện nay và mang lại những lợi ích tích cực về giảm tác động của biến đổi khí hậu, giảm ô nhiễm không khí và giảm phụ thuộc vào nhập khẩu than”, EOR19 khuyến nghị.

Chú trọng phát triển năng lượng tái tạo và các giải pháp tiết kiệm năng lượng

EOR19 khuyến nghị Việt Nam cần chú trọng phát triển năng lượng tái tạo gồm điện mặt trời và điện gió… Bởi Việt Nam là quốc gia giàu tiềm năng trong phát triển điện mặt trời và điện gió. Hơn nữa, hiệu quả đầu tư vào các dự án điện mặt trời và điện gió cao hơn các dự án điện than.

khuyen nghi viet nam dung dau tu moi cac du an nhiet dien than
Việt Nam được EOR19 nhận định là giàu tiềm năng phát triểt năng lượng tái tạo.

Theo tính toán chi phí cực tiểu của toàn bộ hệ thống điện, với 20GW điện gió và điện mặt trời tại những nơi có tiềm năng tốt nhất ở Việt Nam sẽ có hiệu quả đầu tư cao hơn so với điện than vào năm 2030. Con số này sẽ tăng lên đến khoảng 90GW vào năm 2050. Điều này chứng tỏ sức hấp dẫn của công nghệ điện gió và điện mặt trời ngay cả khi không có trợ giá.

Và theo kịch bản có mục tiêu năng lượng tái tạo trong Báo cáo EOR19, điện mặt trời được kỳ vọng đạt công suất 14GW vào năm 2030 và 117GW vào năm 2050. Tích trữ điện năng là chìa khóa cho cân bằng lượng công suất điện tái tạo lớn và không ổn định này. Mức đầu tư vào pin tích trữ điện năng này là khả thi cả về mặt kinh tế và kỹ thuật, nhưng cần có điều tra nghiên cứu để loại bỏ những rào cản thị trường.

“Điện mặt trời kết hợp với pin tích trữ điện năng sẽ là nguồn năng lượng tái tạo chính ở Việt Nam trong tương lai”, Báo cáo EOR19 khuyến nghị.

Về điện gió, khảo sát và đánh giá 6 vị trí điện gió ngoài khơi tiềm năng cuả Báo cáo EOR19 cho thấy: Điện gió ngoài khơi sẽ trở nên hấp dẫn vào năm 2030. Nhưng để phát triển năng lượng tái tạo thành công, Việt Nam cần có khuôn khổ pháp lý minh bạch và ổn định.

Bên cạnh phát triển các dự án năng lượng tái tạo, Việt Nam cần đẩy mạnh các giải pháp tiết kiệm năng lượng. EOR19 phân tích: Mặc dù việc đầu tư vào các công nghệ tiết kiệm năng lượng khiến chi phí tăng lên nhưng chi phí đầu tư này vẫn thấp hơn nhiều so với số thu được từ tiết kiệm nhiên liệu và giảm đầu tư nguồn phát điện.

Ví dụ, vào năm 2030, nếu đầu tư vào công nghệ tiết kiệm năng lượng sẽ khiến Việt Nam phải bỏ thêm 7 tỷ USD thì số tiền lãi thu được sau khi trừ vốn đầu tư gốc sẽ là 3 tỷ USD. Hơn nữa, tiết kiệm năng lượng sẽ đóng góp giảm đáng kể phát thải CO2.

Áp dụng thành công các công nghệ tiết kiệm năng lượng có thể giúp giảm phát thải CO2 ở mức 83 triệu tấn vào năm 2030 và 237 triệu tấn vào năm 2050, chủ yếu trong các ngành điện, công nghiệp và giao thông vận tải.

Để gặt hái tiềm năng này, cần đặt ưu tiên cao cho những biện pháp tiết kiệm năng lượng trong Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia 8 và phải tập trung vào việc loại bỏ những rào cản để tạo điều kiện thuận lợi cho các đầu tư lớn vào công nghệ tiết kiệm năng lượng.

“Kết hợp tiết kiệm năng lượng, phát triển năng lượng tái tạo và sử dụng khí tự nhiên hóa lỏng (LNG) có thể giúp giảm phát thải CO2 tới gần 20% vào năm 2030 và 40% vào 2050 so với kịch bản cơ sở. Điều này còn giúp giảm tổng chi phí hệ thống điện, giảm phụ thuộc vào nhập khẩu nhiên liệu và giảm chi phí y tế của xã hội”, EOR19 khuyến nghị.

Quý Anh

Theo

Cùng chuyên mục
Xem thêm
...

Tin bài cuối cùng

Không còn dữ liệu để load